[TƯ VẤN LHS – TỘI PHẠM CHỨC VỤ] Kỹ năng trao đổi với các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố

Trong các vụ án hình sự nói chung và các vụ án về tội phạm chức vụ nói riêng, Luật sư chính thức có tư cách pháp lý để tham gia tố tụng sau khi khách hàng mời và được các cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy thông báo. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng và Luật sư có địa vị tố tụng, chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có mục đích chung là làm rõ sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo vụ án được giải quyết công bằng, theo đúng quy định của pháp luật. Xuất phát từ mục đích này, Luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng cần có sự phối hợp, trao đổi thông tin, quan điểm trong quá trình giải quyết vụ án.

Trong một số trường hợp, hoạt động tiếp xúc, trao đổi với cơ quan tiến hành tố tụng của Luật sư có thể bắt đầu ngay từ thời điểm Luật sư chưa được cấp giấy thông báo, tức là thời điểm Luật sư còn chưa được xác lập địa vị tố tụng. Trong thực tiễn hành nghề, việc cấp giấy thông báo cho Luật sư tham gia vụ án không phải bao giờ cũng thuận lợi. Vì nhiều lý do, có một số Điều tra viên cho rằng việc Luật sư tham gia vào quá trình điều tra sẽ gây cản trở, khó khăn cho hoạt động điều tra nên thường tìm cách gây khó khăn về thủ tục đăng ký bào chữa, bảo vệ, trong khi đó, phía gia đình bị can thì thường rất mong muốn Luật sư sớm được tham gia vụ án. Khi gặp tình trạng này, Luật sư cần bình tĩnh, trao đổi với CQĐT để việc đăng ký bào chữa, bảo vệ được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Có những trường hợp, chỉ cần hai bên gặp nhau trao đổi là đã có thể giải quyết được vướng mắc.

Ví dụ:

Trong một vụ án về tội nhận hối lộ, khi nhận hồ sơ xin đăng ký bào chữa, Điều tra viên kiểm tra hồ sơ và yêu cầu Luật sư phải bổ sung chứng chỉ hành nghề. Luật sư giải thích cho Điều tra viên Điều 27 Luật Luật sư quy định về các loại tài liệu cần có khi xin cấp văn bản thông báo người bào chữa, trong đó không quy định Luật sư phải nộp chứng chỉ hành nghề, Điều tra viên kiểm tra quy định của pháp luật, chấp nhận và vướng mắc đã được giải quyết.

Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể giải quyết đơn giản, thuận lợi như vậy.

Ví dụ:

Trong vụ án Lạm quyền trong khi thi hành công vụ, sau khi được gia đình bị can mời, Luật sư đã gửi hồ sơ đăng ký bào chữa tới CQĐT. Tuy nhiên, đã quá thời hạn luật định, CQĐT vẫn không cấp giấy thông báo người bào chữa cho Luật sư. Luật sư đã nhiều lần trực tiếp đến làm việc, trao đổi với Điều tra viên và gửi cả văn bản đề nghị cấp giấy đến CQĐT. Tuy nhiên, Điều tra viên đưa ra nhiều lý do không hợp lý về việc chưa cấp giấy. Thay vì tiếp tục làm đơn đề nghị, Luật sư đã làm đơn khiếu nại về hành vi vi phạm tố tụng trong việc đăng ký bào chữa gửi lãnh đạo CQĐT đề nghị giải quyết, đồng thời gửi kèm một bản cho VKS cùng cấp đề nghị VKS căn cứ quyền kiểm sát điều tra, can thiệp để CQĐT giải quyết việc đăng ký bào chữa cho Luật sư đúng quy định. Sau khi Luật sư có đơn khiếu nại tới các cấp có thẩm quyền, việc đăng ký bào chữa cho Luật sư đã được giải quyết.

Tuy nhiên, trong các trường hợp mà pháp luật yêu cầu bắt buộc phải có sự tham gia của Luật sư thì các cơ quan tiến hành tố tụng thường chủ động liên hệ với Luật sư, và luôn tạo mọi điều kiện để Luật sư tham gia.

Trong thực tiễn, mặc dù đã cấp giấy thông báo người bào chữa cho Luật sư, trừ những vụ án thuộc trường hợp bắt buộc phải có Luật sư tham gia, nếu Luật sư không chủ động đưa ra đề nghị được tham gia các hoạt động điều tra thì ít khi CQĐT chủ động thông báo để Luật sư tham gia các hoạt động điều tra. Do đó, trên thực tiễn, ngay sau khi được cấp giấy thông báo người bào chữa, Luật sư nên chủ động liên hệ, trao đổi với CQĐT đề nghị được tham gia các hoạt động tố tụng. Việc đề nghị có thể được thực hiện bằng cách trao đổi trực tiếp với Điều tra viên hoặc bằng văn bản. Sau khi đã đề nghị và được chấp nhận, Luật sư và Điều tra viên cần trao đổi phương thức liên lạc để tiện cho việc trao đổi công việc. Hiện nay, với sự phát triển của phương tiện thông tin liên lạc thì việc CQĐT gửi văn bản thông báo tới văn phòng Luật sư không còn cần thiết và mất tính kịp thời, giữa Điều tra viên và Luật sư có thể thống nhất cách liên lạc với nhau bằng điện thoại di động.

Trong các vụ án về tội phạm chức vụ mà bị can, bị cáo bị tạm giam thì gia đình họ luôn có mong muốn và đề nghị Luật sư trao đổi với các cơ quan tiến hành tố tụng để đề nghị cho bị can, bị cáo được tại ngoại. Tùy theo giai đoạn tố tụng, tính chất của vụ án, các căn cứ pháp lý, Luật sư sẽ trao đổi với các cơ quan tiến hành tố tụng để đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn. Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tội phạm về chức vụ thấy rằng người phạm tội thường không phải là các đối tượng côn đồ nguy hiểm mà nguyên là các cán bộ, công chức, nhiều người trước đây còn giữ các chức vụ cao trong các cơ quan, đoàn thể. Do đó, trong nhiều trường hợp, việc đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn, nếu có lý do chính đáng có thể được chấp nhận. Tuy nhiên, việc chấp nhận đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn thường là sau khi đã kết thúc điều tra.

Ví dụ:

Trong vụ án đưa và nhận hối lộ xảy ra tại một Công ty xây dựng của Nhà nước, một số bị can nguyên là các giám đốc doanh nghiệp bị khởi tố, bắt tạm giam về tội đưa hối lộ. Sau khi bị bắt tạm giam, bản thân bị can, gia đình cùng Luật sư đã nhiều lần gửi đơn xin được thay đổi biện pháp ngăn chặn nhưng không có kết quả. Sau khi kết thúc điều tra, bị can đã thành khẩn nhận tội, các cơ quan tiến hành tố tụng mới giải quyết thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bị can từ tạm giam sang cấm đi khỏi nơi cư trú.

Có những trường hợp việc thay đổi biện pháp ngăn chặn còn được chấp nhận ngay cả sau khi đã xét xử sơ thẩm. Ví dụ, trong một vụ án về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, hủy hoại tài sản, ngay từ khi mới bị bắt tạm giam, Luật sư và gia đình bị can đã nhiều lần gửi đơn tới các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị cho bị can được tại ngoại điều tra. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, đề nghị xin thay đổi biện pháp ngăn chặn không được chấp nhận. Trong quá trình xét xử, Tòa án sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo mức án tù giam, sau đó bị cáo có đơn kháng cáo. Trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm, bị cáo tiếp tục có đơn đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn và đã được Tòa phúc thẩm quyết định cho thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang cấm đi khỏi nơi cư trú. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn thường được áp dụng trong trường hợp bị can, bị cáo đã thành khẩn nhận tội. Trong trường hợp bị can, bị cáo không chấp nhận tội danh bị khởi tố, truy tố, xét xử, bị can, bị cáo kêu oan thì đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn ít khi được chấp nhận.

Hành vi phạm tội trong các vụ án về tội phạm chức vụ thường rất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn. Trong những vụ án phức tạp, không phải người tiến hành tố tụng nào cũng có được sự hiểu biết về lĩnh vực chuyên môn liên quan đến vụ án, điều này đôi khi sẽ dẫn đến sự bất lợi cho bị can, bị cáo. Do đó, Luật sư cần tiếp xúc, trao đổi để cùng các cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ các vấn đề của vụ án. Trong quá trình tham gia giải quyết vụ án, Luật sư có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Về nguyên tắc, pháp luật quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ chứng minh tội phạm phải thu thập cả các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Tuy nhiên, các vụ án tội phạm về chức vụ, đặc biệt là các vụ án lớn thường rất phức tạp, trong nhiều trường hợp, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể bao quát hết được và tâm lý làm việc là thường thiên về tìm kiếm các chứng cứ buộc tội hơn là chứng cứ gỡ tội nên Luật sư cần tự mình chủ động thu thập các chứng cứ có lợi cho khách hàng. Khi có được các chứng cứ này, Luật sư có thể trao đổi với cơ quan tiến hành tố tụng, và cung cấp theo quy định của pháp luật. Nếu nhận thấy có những căn cứ có lợi cho khách hàng mà các cơ quan tiến hành tố tụng còn bỏ qua, Luật sư có quyền trao đổi, đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, xác minh vấn đề đó để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Nếu nhận thấy có các nhân chứng, người liên quan đến vụ án mà lời khai của họ có thể có lợi cho khách hàng chưa được đưa vào vụ án, Luật sư có thể trao đổi, đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của họ, đưa họ vào diện nhân chứng, người liên quan trong vụ án.

Hành vi phạm tội trong các vụ án tội phạm về chức vụ thường liên quan đến các hành vi phạm tội khác dẫn đến các vụ án loại này thường rất lớn, số lượng bị can, bị cáo nhiều, liên quan đến nhiều tội danh khác nhau. Tùy theo tính chất của vụ án, sự liên quan của các hành vi phạm tội, nếu nhận thấy việc tách vụ án có lợi cho khách hàng, Luật sư có quyền trao đổi với các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị tách vụ án.

Ví dụ :

Trong một vụ án về tội Buôn lậu, một cán bộ công an khi bắt giữ các đối tượng phạm tội buôn lậu đã có hành vi chiếm đoạt một số tiền lớn của một đối tượng phạm tội. Hành vi này bị phát hiện và vị cán bộ công an bị khởi tố về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Vụ án lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được khởi tố, điều tra cùng vụ án buôn lậu. Trong vụ án buôn lậu có rất nhiều bị can không có liên quan gì đến hành vi phạm tội của vị cán bộ công an. Do đó, sau khi tham gia vụ án, nhận thấy việc tách vụ án có lợi hơn cho khách hàng, đồng thời cũng thuận tiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử, Luật sư đã trao đổi với các cơ quan tiến hành tố tụng và sau đó vụ án Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản đã được tách ra khỏi vụ án buôn lậu thành một vụ án độc lập.

Trong quá trình tham gia các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, nếu phát hiện có các hành vi vi phạm tố tụng, Luật sư có quyền thông báo, yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng phải xử lý, khắc phục các vi phạm.

Ví dụ:

Trong một vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, Luật sư tham gia hoạt động hỏi cung bị can cùng với Điều tra viên. Trong quá trình hỏi cung, nhận thấy Điều tra viên có thái độ quát nạt, đe dọa bị can dẫn tới bị can rất bức xúc. Luật sư đã nhắc nhở nhưng Điều tra viên vẫn không chịu sửa chữa. Luật sư đã đề nghị trại tạm giam đến lập biên bản, sau đó có văn bản báo cáo sự việc với CQĐT và VKS đang thụ lý vụ án. Kết quả là Điều tra viên vi phạm đã bị xử lý kỷ luật và thay thế bằng Điều tra viên khác.

Hành vi vi phạm tố tụng không chỉ diễn ra trong giai đoạn điều tra mà còn ở giai đoạn xét xử. Ví dụ, trong một vụ án, Luật sư đã được Tòa án đồng ý đăng ký bào chữa và tham gia phiên tòa sơ thẩm. Sau khi mở phiên tòa xét xử, HĐXX sơ thẩm đã quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Kết thúc quá trình điều tra bổ sung, hồ sơ được chuyển sang Tòa án để tiếp tục xét xử. Tuy nhiên, khi Luật sư đến làm việc đề nghị được sao chụp hồ sơ liên quan đến quá trình điều tra bổ sung, Thẩm phán lại yêu cầu Luật sư phải làm lại thủ tục đăng ký người bào chữa vì cho rằng thủ tục đăng ký bào chữa trước đây đã hết giá trị khi tòa quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Luật sư cho rằng yêu cầu của Thẩm phán là không có cơ sở pháp lý nên đã gửi văn bản khiếu nại đến Chánh án Tòa án và VKS cùng cấp. Sau đó, Thẩm phán đã mời Luật sư đến tiếp tục làm việc mà không cần phải làm thủ tục đăng ký bào chữa mới. Không phải trong trường hợp nào khi phát hiện vi phạm tố tụng, Luật sư cũng phải gửi văn bản thông báo hoặc làm đơn khiếu nại tới các cơ quan tiến hành tố tụng. Có nhiều hành vi vi phạm tố tụng nhưng không quá nghiêm trọng, không ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi khách hàng, hoạt động của Luật sư thì tùy theo từng trường hợp, Luật sư có thể trao đổi trực tiếp với những người tiến hành tố tụng để rút kinh nghiệm, khắc phục vi phạm. Ví dụ, theo quy định tại BLTTHS thì khi kết thúc điều tra, CQĐT có nghĩa vụ gửi Bản kết luận điều tra cho người bào chữa. Tuy nhiên, CQĐT đã không thực hiện quy định này, Luật sư đã trao đổi, nhắc nhở và sau đó Điều tra viên đã gửi bản kết luận điều tra cho Luật sư.

Nội dung trao đổi giữa Luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng phụ thuộc nhiều vào từng giai đoạn tố tụng. Trong giai đoạn điều tra, phạm vi tham gia và thông tin mà Luật sư có được còn nhiều hạn chế. Luật sư chưa được quyền tiếp cận hồ sơ vụ án một cách đầy đủ, toàn diện, việc gặp gỡ, trao đổi với bị can đang bị tạm giam chưa được chủ động. Chính vì vậy, các nội dung trao đổi giữa Luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn này thường chỉ hạn chế trong các vấn đề liên quan đến hoạt động điều tra. Ví dụ, đăng ký bào chữa, tham gia hoạt động điều tra, tách nhập vụ án, đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn… Sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ chuyển sang VKS, về nguyên tắc, Luật sư được quyền tiếp cận, nghiên cứu, sao chụp toàn bộ hồ sơ liên quan đến việc bảo vệ khách hàng của mình, chủ động vào trại tạm giam gặp gỡ, làm việc với bị can. Sau khi đã nghiên cứu hồ sơ, trao đổi, thống nhất quan điểm với khách hàng, đây là thời điểm thích hợp, cần thiết để Luật sư có thể trao đổi quan điểm về vụ án với các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là trong các vụ án mà Luật sư nhận thấy có dấu hiệu oan sai. Đây là thời điểm thích hợp, cần thiết là bởi vì vào thời điểm này, CQĐT đã có bản kết luận điều tra đề nghị truy tố bị can nhưng VKS thì đang nghiên cứu hồ sơ, chưa ra bản cáo trạng quyết định truy tố. Tại thời điểm này, nếu Luật sư gửi bản kiến nghị với các căn cứ pháp lý vững chắc tới VKS, chứng minh các căn cứ buộc tội trong hồ sơ vụ án là không có cơ sở pháp lý thì sẽ khiến VKS phải thận trọng xem xét lại các căn cứ buộc tội. Nếu nhận thấy không đủ căn cứ thì có thể VKS sẽ phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, hoặc có trường hợp dẫn đến đình chỉ điều tra đối với bị can.

Ví dụ:

Trong vụ án đưa và nhận hối lộ xảy ra tại một công ty xây dựng nhà nước, kết thúc quá trình điều tra, CQĐT đã ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố bị can M về tội đưa hối lộ. Sau khi hồ sơ chuyển sang VKS, Luật sư đã nghiên cứu hồ sơ, trao đổi với bị can, nhận thấy hành vi của bị can M không cấu thành tội đưa hối lộ, Luật sư đã gửi bản kiến nghị tới VKS. Sau khi xem xét, VKS đã quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can M.

Do việc chứng minh hành vi phạm tội trong các vụ án tội phạm về chức vụ thường phức tạp, liên quan nhiều đến các chủ trương, chính sách, lĩnh vực chuyên môn nên việc trao đổi giữa Luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng là rất cần thiết, đặc biệt là trước phiên tòa xét xử. Trong các vụ án phức tạp, nếu Luật sư không có sự trao đổi trước mà trình bày toàn bộ các chứng cứ tại phiên tòa thì nhiều khi sẽ gây khó khăn cho HĐXX trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ để đưa ra quyết định. Để HĐXX có thời gian xem xét, đánh giá chứng cứ, làm rõ các tình tiết của vụ án, bàn luận, thống nhất với nhau, Luật sư nên có văn bản kiến nghị gửi tới Tòa án trước khi mở phiên tòa một thời gian hợp lý. Đặc biệt là các vụ án mà Luật sư nhận thấy khách hàng mình có dấu hiệu oan sai thì việc gửi Bản kiến nghị trình bày toàn bộ các căn cứ pháp lý chứng minh sự oan sai tới Tòa án trước khi xét xử càng cần thiết.

Ví dụ:

Trong vụ án tham ô tài sản xảy ra tại một doanh nghiệp, TAND tỉnh NĐ đã xét xử sơ thẩm và tuyên án bị cáo S phạm tội tham ô với mức án 20 năm tù. Bị cáo kháng cáo lên Tòa phúc thẩm tối cao tại Hà Nội và mời Luật sư tham gia bảo vệ tại phiên tòa phúc thẩm. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, trao đổi với khách hàng và những người liên quan, Luật sư nhận thấy việc kết án bị cáo S tội tham ô là không đúng quy định của pháp luật, quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm có nhiều dấu hiệu thiếu khách quan, vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Luật sư đã viết bản kiến nghị trình bày các căn cứ, quan điểm của mình gửi tới Tòa phúc thẩm trước khi mở phiên tòa. HĐXX phúc thẩm có thời gian nghiên cứu kỹ hồ sơ, nghiên cứu các căn cứ pháp lý Luật sư đưa ra và tại phiên tòa phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra và xét xử lại vụ án.

Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung

Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585

Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn

Bài viết liên quan