[TƯ VẤN LHS – TỘI PHẠM CHỨC VỤ] Tiếp xúc, trao đổi với bị can, bị cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố

Mục đích, yêu cầu của việc tiếp xúc, trao đổi với bị can, bị cáo trong các vụ án tội phạm về chức vụ cũng giống như các vụ án hình sự khác là nhằm tìm hiểu sự thật khách quan của vụ án, hiểu được mong muốn, nguyện vọng của bị can, bị cáo, giải thích pháp luật, chuẩn bị tâm lý cho bị can, bị cáo, nắm vững, củng cố chứng cứ, xác định xem có sự vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng hay không, thống nhất phương án bào chữa.

Đối với bị can, bị cáo tại ngoại thì việc tiếp xúc, trao đổi sẽ rất thuận tiện. Luật sư có thể chủ động bố trí thời gian, địa điểm cho cuộc gặp gỡ cũng như nội dung làm việc. Bị can, bị cáo nguyên là những người có chức vụ, quyền hạn, thường là người có trình độ, họ thích tác phong làm việc có tính chuyên nghiệp, do đó, Luật sư nên bố trí địa điểm làm việc tại những nơi trang nghiêm, lịch sự, hoặc ngay tại văn phòng Luật sư. Tác phong của Luật sư cần đàng hoàng, chững chạc, đúng hẹn… Trong quá trình làm việc nên giữ một khoảng cách nhất định để giữ thế chủ động trong công việc. Bị can, bị cáo là những người trước đây từng có địa vị xã hội, quen được người khác phục tùng nên có thể cũng sẽ muốn Luật sư thực hiện công việc theo sự chỉ đạo của họ. Luật sư cần tránh điều này, bởi vì hiện nay, bị can, bị cáo có thể ví như một “người bệnh về pháp lý” và Luật sư là “bác sĩ về pháp lý” cho họ. Trong quan hệ này, “bác sĩ” phải là người chủ động và “bệnh nhân” cần nghe lời “bác sĩ” thì công việc bảo vệ của Luật sư mới có hiệu quả.

Đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam, sau khi được cấp giấy thông báo người bào chữa, tùy theo từng giai đoạn tố tụng Luật sư sẽ có kế hoạch gặp gỡ, tiếp xúc với bị can, bị cáo. Do bị can, bị cáo đang bị tạm giam nên việc gặp gỡ sẽ phải tuân theo các quy định của pháp luật và có nhiều hạn chế hơn so với trường hợp bị can, bị cáo đang tại ngoại. Trong trường hợp vụ án đang trong quá trình điều tra, mặc dù BLTTHS quy định Luật sư được quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam nhưng thực tế, trong giai đoạn này, Luật sư muốn gặp bị can thường phải được sự đồng ý của CQĐT và phải có Điều tra viên đi cùng. Thông thường, Luật sư được bố trí tham gia hỏi cung cùng Điều tra viên. Trong trường hợp tham gia hỏi cung cùng Điều tra viên, các thủ tục liên quan đến việc trích xuất bị can sẽ do Điều tra viên thực hiện, tuy nhiên, Luật sư cũng cần mang theo giấy thông báo người bào chữa, thẻ Luật sư, giấy giới thiệu để xuất trình khi trại tạm giam yêu cầu.

Trong giai đoạn truy tố, xét xử, với tư cách là người bào chữa, về nguyên tắc, Luật sư được quyền chủ động vào trại tạm giam để làm việc với bị can, bị cáo. Trong giai đoạn này, khi vào trại tạm giam, Luật sư phải chủ động làm các thủ tục với trại để trích xuất bị can, bị cáo ra làm việc. Hồ sơ liên quan đến việc trích xuất gồm Giấy thông báo người bào chữa do cơ quan tiến hành tố tụng cấp, Giấy giới thiệu của Tổ chức hành nghề Luật sư; Bản sao Thẻ Luật sư. Luật sư cần nghiên cứu Luật thi hành tạm giữ, tạm giam để nắm được thủ tục, quyền hạn của Luật sư trong giai đoạn này để làm các thủ tục theo quy định hoặc xử lý các tình huống bị gây cản trở khi cần thiết.

Ví dụ:

Trong vụ án T xảy ra tại thành phố C, khi hồ sơ đã chuyển sang Tòa án để chuẩn bị xét xử, Luật sư đã được Tòa án cấp văn bản thông báo người bào chữa, nhưng khi Luật sư vào trại tạm giam làm thủ tục gặp bị can thì giám thị cho biết, theo yêu cầu của CQĐT, trong trường hợp này, Luật sư muốn gặp bị can phải có sự đồng ý của CQĐT và phải có Điều tra viên đi cùng. Nhận thấy yêu cầu này là không đúng quy định của pháp luật, có dấu hiệu vi phạm thẩm quyền của Tòa án bởi vì đã trong giai đoạn xét xử, Luật sư đã làm đơn khiếu nại gửi tới lãnh đạo trại tạm giam, CQĐT, VKS. Sau đó, trại tạm giam đã phải cho phép Luật sư vào làm việc với bị can.

Trong vụ án thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, hủy hoại tài sản tại TL-HP (năm 2018), trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư đã được Tòa án cấp văn bản thông báo người bào chữa. Khi Luật sư vào trại tạm giam làm thủ tục gặp bị can, cán bộ trại giam yêu cầu Luật sư phải đến Tòa án xin “lệnh trích xuất” bị can. Nhận thấy yêu cầu của cán bộ trại là không đúng pháp luật, Luật sư đã trao đổi với cán bộ trại là Tòa án đã cấp văn bản thông báo người bào chữa. Đây không phải là trường hợp trích xuất bị can ra khỏi trại mà chỉ là đưa bị can ra khỏi buồng giam để làm việc với Luật sư. Theo quy chế trại tạm giam, việc này thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của trại tạm giam. Trong trường hợp này, trại tạm giam sẽ căn cứ vào văn bản thông báo người bào chữa do Tòa án đã cấp để trích xuất bị can ra khỏi buồng giam và bố trí cho Luật sư làm việc. Sau khi trao đổi, giải thích các quy định của pháp luật, Luật sư cương quyết đề nghị nếu cán bộ trại không chấp nhận, vẫn yêu cầu Luật sư phải về xin “lệnh trích xuất” của Tòa án thì phải lập biên bản sự việc để Luật sư có căn cứ làm việc với các cơ quan hữu quan. Sau đó, cán bộ trại giam đã cho phép Luật sư vào làm việc với bị can và không còn yêu cầu phải xin “lệnh trích xuất” của Tòa án nữa.

Trong vụ án hình sự hình sự nói chung và vụ án tội phạm về chức vụ nói riêng, bị can, bị cáo là người trong cuộc nên sẽ hiểu rõ nhất về nội dung, các tình tiết của vụ việc. Trao đổi với bị can, bị cáo là cách nhanh nhất để Luật sư có thể nắm được sự thật khách quan, các tình tiết, diễn biến của vụ án. Là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực quản lý, lại là người đang bị cho là thực hiện hành vi phạm tội, bị can, bị cáo luôn có các quan điểm tự bào chữa cho mình. Trao đổi để nắm được các quan điểm tự bào chữa của bị can, bị cáo sẽ rất hữu ích trong việc bảo vệ khách hàng sau này, giúp Luật sư có những định hướng chính xác trong việc nghiên cứu hồ sơ, cũng như xác định phương hướng, căn cứ pháp lý để bảo vệ khách hàng. Tuy nhiên, do hành vi phạm tội trong các vụ án tội phạm về chức vụ thường rất phức tạp, không phải trường hợp nào CQĐT cũng có thể làm rõ được tất cả các hành vi phạm tội liên quan nên trong thực tiễn, bị can, bị cáo thường có khuynh hướng: Chỉ khai nhận những gì đã bị phát hiện, còn những gì chưa bị phát hiện thì thường giấu kín. Do đó, trong quá trình gặp gỡ, trao đổi với bị can, bị cáo Luật sư không chỉ biết nghe những gì bị can, bị cáo nói mà cần suy luận, đánh giá các thông tin đó xem có phù hợp với sự thật, với các chứng cứ khác không.

Ví dụ:

Trong một vụ án về tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại quận H.M, bị can trao đổi với Luật sư là thực hiện hành vi phạm tội không được hưởng lợi ích gì, trong khi các thông tin bên ngoài thì cho rằng bị can nhận được rất nhiều tiền từ hành vi phạm tội của mình. Với vai trò là người bào chữa cho bị can, Luật sư cũng chỉ nghe để biết, và cũng không cần phải đi chứng minh điều đó vì điều đó bất lợi cho khách hàng, và về nguyên tắc, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, Luật sư không làm xấu đi tình trạng của khách hàng mình.

Việc gặp gỡ, trao đổi còn nhằm giúp Luật sư biết được mong muốn, nguyện vọng của bị can, bị cáo, từ đó giúp Luật sư đưa ra những định hướng trong quá trình giải quyết vụ án. Mỗi vụ án có những nội dung khác nhau nên mong muốn, nguyện vọng của bị can, bị cáo không phải trong trường hợp nào cũng giống nhau. Có trường hợp, bị can, bị cáo nhận thức rõ được hành vi phạm tội của mình nên rất ăn năn, hối cải, chỉ mong muốn được xin giảm nhẹ hình phạt. Có những vụ án, bị can, bị cáo cho rằng việc điều tra, truy tố, xét xử chưa khách quan dẫn đến oan sai cho bị can, bị cáo và họ mong muốn được Luật sư giúp để minh oan cho họ. Có trường hợp bị can, bị cáo lại cho rằng hành vi của mình có vi phạm pháp luật nhưng tội danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với họ là chưa đúng quy định của pháp luật nên họ muốn Luật sư giúp bảo vệ họ theo hướng thay đổi tội danh…

Mặc dù nguyên là những người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực của mình, từng trải trong cuộc sống nhưng không phải bị can, bị cáo nào trong các vụ án tội phạm về chức vụ cũng hiểu biết về pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Trong quá trình gặp gỡ, trao đổi, Luật sư cần tư vấn cho bị can, bị cáo nắm bắt được các quy định của pháp luật liên quan đến vụ việc của mình. Tư vấn cho bị can, bị cáo các quy định của BLHS để giúp họ hiểu rõ về tội danh, khung hình phạt mà mình đang bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS có thể xem xét, vận dụng trong vụ án của họ. Để giúp bị can, bị cáo có được sự hình dung toàn diện về quá trình giải quyết vụ án, quyền và nghĩa vụ của họ, Luật sư cần tư vấn cho bị can, bị cáo các quy định của BLTTHS. Không chỉ tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp luật hình sự, sự hiểu biết và tư vấn của Luật sư cho bị can, bị cáo về các quy định của pháp luật liên quan đến chính lĩnh vực chuyên môn của họ trong nhiều trường hợp rất hữu ích, bởi vì không phải bị can bị cáo nào cũng hiểu sâu về các quy định trong lĩnh vực của mình. Trong nhiều trường hợp, chính vì sự không hiểu, hoặc không hiểu một cách toàn diện các quy định pháp luật trong lĩnh vực chuyên môn của bị can, bị cáo thậm chí của cả các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến trường hợp khởi tố oan, hoặc áp dụng chế tài xử lý quá nặng đối với bị can, bị cáo.

Ví dụ:

Trong một vụ án xảy ra tại một trường trung cấp thuộc tỉnh QB, bị can Đ nguyên là Trưởng phòng Phòng Đào tạo bị khởi tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” vì đã có hành vi vi phạm trong lĩnh vực tuyển sinh gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, sau khi được mời tham gia vụ án, nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực tuyển sinh, đào tạo… Luật sư nhận thấy hành vi của bị can không thể coi là vi phạm các quy định về tuyển sinh, bị can không có lỗi đối với hậu quả đã xảy ra. Luật sư đã tư vấn để bị can hiểu rõ các quy định của pháp luật, và cùng với bị can gửi đơn tới các cơ quan tố tụng. Sau khi xem xét, các cơ quan tố tụng đã quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can Đ.

Về mặt tâm lý, do đang ở vị thế là người có địa vị xã hội nay chuyển sang địa vị của người phạm tội bị pháp luật phán xử, đặc biệt là trong những trường hợp bị tạm giam, bị can, bị cáo thường bị sốc về mặt tâm lý. Luật sư cần thấu hiểu và chia sẻ, động viên để bị can, bị cáo vượt qua được giai đoạn khó khăn, ổn định lại tâm lý.

Chứng cứ trong các vụ án tội phạm về chức vụ thường phức tạp, đòi hỏi phải có những kiến thức chuyên môn trong các lĩnh vực cụ thể, trong khi đó, không phải lĩnh vực gì Luật sư cũng có thể hiểu biết hết được. Trong khi đó, bị can, bị cáo là người trong cuộc, hiểu rõ nội dung sự việc, có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực của họ. Do đó, trong quá trình gặp gỡ, trao đổi với bị can, bị cáo, Luật sư cần cùng với bị can, bị cáo củng cố chứng cứ, làm rõ các vấn đề liên quan đến chứng cứ của vụ án, cần thu thập thêm các chứng cứ gì, nguồn ở đâu, đánh giá các chứng cứ có lợi, bất lợi cho bị can, bị cáo để thống nhất cách khai thác, sử dụng trong quá trình tác nghiệp.

Ví dụ:

Trong vụ án về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” xảy ra tại TL-HP, khi trao đổi về chứng cứ, bị can đã cho Luật sư biết tấm bản đồ thực địa có trong hồ sơ vụ án có dấu hiệu bị chỉnh sửa, không đúng với tấm bản đồ ban đầu mà bị can sử dụng, đồng thời cung cấp cho Luật sư tấm bản đồ gốc. Làm rõ được vấn đề này là tình tiết có lợi cho khách hàng, Luật sư đã đề nghị gia đình cung cấp chứng cứ này cho Tòa án. Tại phiên tòa, Luật sư đã xét hỏi các bị cáo, nhân chứng liên quan về chứng cứ này những đối tượng liên quan đã phải thừa nhận là có sự chỉnh sửa tờ bản đồ trên.

Trong quá trình gặp gỡ, trao đổi với bị can, bị cáo, Luật sư cần xác định có vi phạm tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử hay không. Luật sư cần phân biệt rõ các vi phạm tố tụng gì là vi phạm không nghiêm trọng và những loại vi phạm gì là vi phạm nghiêm trọng để có hướng xử lý. Đối với những vi phạm tố tụng không phải là vi phạm nghiêm trọng, không làm thay đổi bản chất vụ án, thì tùy theo mức độ mà Luật sư có thể nhắc nhở để các cơ quan tiến hành tố tụng sửa đổi, rút kinh nghiệm.

Ví dụ:

Trong vụ án Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, khi trao đổi, bị can cho biết đã mấy tháng, kể từ khi bị tạm giam, cán bộ điều tra đã yêu cầu trại tạm giam không cho phép bị can được nhận đồ tiếp tế của gia đình, bị can cho rằng việc ngăn không cho bị can nhận quà của gia đình là một hình thức gây sức ép đối với bị can. Luật sư nhận thấy với sự can thiệp như vậy, cán bộ điều tra đã có dấu hiệu vi phạm tố tụng, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của bị can về quyền được nhận đồ tiếp tế của gia đình quy định trong quy chế trại tạm giam. Luật sư đã có công văn gửi CQĐT và trại tạm giam, sau đó, bị can đã được nhận đồ do gia đình gửi theo đúng quy định của pháp luật.

Đối với các vi phạm tố tụng nghiêm trọng, Luật sư có thể khai thác theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo.

Ví dụ:

Trong vụ án tham ô tài sản xảy ra tại công ty ND tỉnh NĐ, sau khi bị Tòa sơ thẩm tuyên xử 20 năm tù về tội tham ô tài sản theo khoản 4 Điều 353 BLHS, bị cáo đã kháng cáo và mời Luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn phúc thẩm. Khi gặp gỡ, trao đổi với bị cáo, Luật sư được biết trong quá trình điều tra không có sự tham gia của Luật sư, chỉ khi sắp kết thúc điều tra, CQĐT mới cho Luật sư vào. Căn cứ thông tin bị cáo cung cấp, Luật sư kiểm tra trong hồ sơ và nhận thấy, trong quá trình điều tra, có 26 biên bản ghi lời khai và bản cung thì chỉ có 2 bản gần cuối là có sự tham của Luật sư. Căn cứ văn bản của Bộ Công an và TANDTC hướng dẫn về việc bắt buộc phải có sự tham gia của Luật sư trong các vụ án mà bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử ở khung hình phạt có mức hình phạt cao nhất là tử hình, Luật sư đã gửi văn bản kiến nghị tới Tòa phúc thẩm, sau đó, Tòa phúc thẩm xét xử đã tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra và xét xử lại.

Khi gặp gỡ, trao đổi, giữa Luật sư và bị can, bị cáo cần thống nhất với nhau định hướng bào chữa, bảo vệ. Tâm lý chung là khi mời Luật sư tham gia vụ án, bị can, bị cáo luôn mong muốn sự tham gia của Luật sư sẽ giúp cho vụ án được giải quyết theo hướng có lợi nhất cho họ. Trong nhiều trường hợp, do không hiểu biết pháp luật, có bị can, bị cáo còn đặt ra điều kiện với Luật sư. Ví dụ, Luật sư phải bào chữa để giúp họ theo hướng được hưởng án treo hoặc thậm chí được vô tội. Trong trường hợp hành vi phạm tội đã rõ ràng, bị can, bị cáo bị truy tố ở những tội danh và khung hình phạt có mức án cao thì định hướng bào chữa theo hướng vô tội hoặc án treo mà họ mong muốn là điều không thể thực hiện được. Do đó, căn cứ các tài liệu chứng cứ, các quy định của pháp luật, Luật sư cần định hướng bào chữa, bảo vệ và tư vấn, trao đổi với bị can, bị cáo để thống nhất với nhau.

Ví dụ:

Trong vụ án về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, hủy hoại tài sản xảy ra tại TL.HP, khi mới gặp Luật sư, bị can luôn cho rằng mình vô tội. Tuy nhiên, qua nghiên cứ hồ sơ, đánh giá tính chất của vụ án, Luật sư cho rằng với vai trò của bị can, với hậu quả đã xảy ra, việc bào chữa theo hướng vô tội là không hợp lý, thậm chí có thể bất lợi cho chính bị can. Sau khi nghe Luật sư tư vấn, bị can hiểu ra và thống nhất phương án xin giảm nhẹ và hưởng án treo.

Trong thực tiễn, không phải trường hợp nào bị can, bị cáo cũng nghe theo ý kiến của Luật sư, mặc dù đã được Luật sư tư vấn nhưng vì lý do nào đó, họ nhất quyết giữ ý kiến của họ và đề nghị Luật sư thống nhất với phương hướng họ đề ra, mặc dù phương hướng này có thể sẽ gây nhiều bất lợi cho chính họ sau này. Trong trường hợp này, Luật sư cần có cách ứng xử phù hợp để vừa đảm bảo được quyền lợi của khách hàng, vừa thực hiện đúng vai trò của Luật sư.

Ví dụ:

Trong vụ án tại tỉnh QB, bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử về tội tham ô tài sản với vai trò đầu vụ nhưng bị can, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội bị cáo buộc và đề nghị Luật sư thống nhất bào chữa theo hướng không có tội. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư nhận thấy mặc dù hồ sơ vụ án có rất nhiều vấn đề, các căn cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo không đầy đủ, chứa đựng nhiều vi phạm tố tụng, Luật sư tư vấn hướng bảo vệ là trả hồ sơ điều tra bổ sung, tuy nhiên, bị can, bị cáo vẫn đề nghị Luật sư bào chữa theo hướng vô tội. Tại phiên tòa, Luật sư đưa ra các căn cứ bác bỏ các căn cứ buộc tội bị cáo trong hồ sơ và chứng minh không đủ căn cứ kết tội bị cáo, đề nghị Tòa án xem xét quyết định. Kết quả phiên tòa đó, HĐXX đã tuyên bị cáo vô tội. Tuy nhiên, chính việc không chấp nhận lời tư vấn của Luật sư, mặc dù kết quả phiên tòa theo đúng ý nguyện của bị cáo nhưng đã dẫn đến một hậu quả bất lợi cho chính bị cáo. Cụ thể là bản án sơ thẩm đã bị VKS kháng nghị, và Tòa phúc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm để điều tra và xét xử lại.

Do tính phức tạp của hành vi phạm tội trong các vụ án về chức vụ nên quá trình giải quyết vụ án có thể xuất hiện những tình huống bất ngờ, có ảnh hưởng đến định hướng giải quyết vụ án nên sự thống nhất về phương hướng bào chữa, bảo vệ giữa Luật sư và bị can, bị cáo cần có sự linh hoạt, chủ động điều chỉnh theo các tình huống mới phát sinh.

Bị cáo trong các vụ án tội phạm về chức vụ thường là những người có trình độ hiểu biết, hiểu rõ vụ án, nhanh nhạy trong việc xử lý các tình huống cho nên trước phiên tòa, cùng với việc thống nhất quan điểm bảo vệ, tư vấn pháp luật…, Luật sư nên tư vấn, chuẩn bị cho bị cáo các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, các vấn đề mà HĐXX, Kiểm sát viên, Luật sư có thể xét hỏi bị cáo để họ có thời gian suy nghĩ, chuẩn bị và phối hợp tốt với Luật sư tại phiên tòa.

Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung

Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585

Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn

Bài viết liên quan