Điều 590 BLDS 2015 quy định các khoản bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được xác định từ các căn cứ sau:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại, bao gồm: tiền thuê phương tiện đi lại; tiền viện phí; tiền điều trị theo chỉ định của bác sĩ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) như việc lắp chân, tay, mắt giả; mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống; tiền điều trị thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại. Cụ thể được tính như sau:
Đối với thu nhập bị mất: trước khi sức khỏe bị xâm phạm, nếu người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại là mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khỏe nhân với thời gian nghỉ việc để điều trị. Trường hợp mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại là mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì lấy trung bình của tất cả các tháng) trước khi sức khỏe bị xâm phạm nhân với thời gian nghỉ việc để điều trị. Nếu thu nhập thực tế không ổn định và không thể xác định được, thì khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được áp dụng theo mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian nghỉ việc để điều trị. Trường hợp người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường.
Đối với thu nhập thực tế bị giảm sút: xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không? Tổng thu nhập bao nhiêu? So sánh với thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trước khi sức khỏe bị xâm phạm nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định là bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị giảm sút. Cần lưu ý trên thực tế nhiều trường hợp người bị hại tuy phải nghỉ việc để điều trị nhưng vẫn được hưởng lương theo chế độ bảo hiểm, hoặc vẫn được trả lương đầy đủ thì khoản thu nhập này người gây thiệt hại không phải bồi thường.
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại, cụ thể là:
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế. Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được tính tương tự như đối với người bị thiệt hại về sức khỏe.
Trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại, mức chi phí chỉ được tính cho một người chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Điều 612 BLDS 2005 quy định người bị thiệt hại được hưởng khoản bồi thường chi phí cho người thường xuyên chăm sóc trong trường hợp này từ khi mất khả năng lao động cho đến khi chết. Quy định này không rõ thời điểm bắt đầu tính, do đó khoản 1 Điều 593 BLDS 2015 đã sửa đổi theo hướng “trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động cho đến khi chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
- Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: Khoản tiền này được bồi thường cho chính người bị thiệt hại khi sức khỏe bị xâm phạm. Việc tính toán đưa ra yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần được căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân, để các bên thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được, mức bồi thường được chấp nhận căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, BLDS 2005 quy định theo hướng ấn định mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường. Đến BLDS 2015 ấn định mức bồi thường bù đắt tổn thất về tinh thần tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoản 2 Điều 590). Thiệt hại khác do luật quy định.
Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung
Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585
Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn