Để chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm, Luật sư cần nắm chắc các kỹ năng chung, kỹ năng đặc thù chuẩn bị tham gia phiên tòa kinh doanh, thương mại và đặc trưng của loại án tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm.
Ví dụ:
Ngày 02/4/2014, Công ty TNHH K có trụ sở tại thành phố T, tỉnh T do ông Trần Hải H là Giám đốc đã ký kết hợp đồng tín dụng số 101/2014/HĐTD với chi nhánh Ngân hàng P có trụ sở tại thành phố T, tỉnh T để vay số tiền 7,3 tỷ đồng, với mục đích vay là bổ sung vốn lưu động của Công ty K; thời hạn vay 12 tháng theo từng khế ước nhận nợ, mỗi khế ước không quá 6 tháng, lãi suất vay thả nổi và áp dụng tại thời điểm giải ngân tính bằng lãi suất tiết kiệm dân cư 12 tháng do Ngân hàng P công bố + lãi biên 3% năm, thời hạn trả gốc theo phân kỳ hàng quý, trả lãi hàng tháng.
Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại địa chỉ số 81 phố H, thành phố T, tỉnh T theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở số AI 046820 do UBND thành phố T cấp đứng tên ông Trần Hải B và bà Nguyễn Thị H. Ông B, có văn bản ủy quyền của bà H, ký hợp đồng thế chấp số 101A/2014/HĐTC ngày 02/4/2014 bảo đảm cho số tiền vay của Công ty K tại Ngân hàng P là 05 tỷ đồng theo hợp đồng tín dụng số 101/2014/HĐTD và những hợp đồng tín dụng khác được Công ty K ký kết trong thời gian từ 02/4/2014 đến 02/4/2018.
Sau khi ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, chi nhánh Ngân hàng P đã giải ngân cho Công ty K theo hai khế ước kỳ hạn 6 tháng: Khế ước nhận nợ số 107.101/2014/KUNN ngày 27/4/2014 với số tiền giải ngân là 5 tỷ đồng và Khế ước nhận nợ số 108.101/2014/KUNN ngày 15/6/2014 với số tiền giải ngân là 2,3 tỷ đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, Công ty K thanh toán được 01 kỳ nợ gốc là 700 triệu đồng, trả lãi được 03 kỳ trong 3 tháng, sau đó không trả được gốc, lãi như cam kết. Ông H đã bỏ đi khỏi địa phương, ông Nguyễn Văn Đ – Chủ tịch Hội đồng thành viên của Công ty K cho biết công ty đã không còn hoạt động từ năm 2015. Chi nhánh Ngân hàng P đã nhiều lần tìm kiếm và thông báo để yêu cầu Công ty K trả nợ, thậm chí đã cơ cấu lại nợ cho công ty, đồng ý miễn giảm lãi để thu được nợ gốc, nhưng vẫn không thu được nợ. Ngân hàng đã thông báo cho ông Trần Hải B và bà Nguyễn Thị H yêu cầu có trách nhiệm trả nợ thay cho Công ty K, nếu không thì phải bàn giao tài sản cho ngân hàng để phát mại thu hồi nợ.
Ngày 03/11/2017, Ngân hàng P đã khởi kiện Công ty TNHH K ra Tòa án buộc Công ty K phải trả số tiền nợ gốc, lãi và lãi phạt do chậm thực hiện nghĩa vụ cho đến thời điểm nộp đơn; nếu Công ty K không trả được nợ thì buộc ông Trần Hải B và bà Nguyễn Thị H có nghĩa vụ trả nợ thay hoặc phát mại tài sản của ông B và bà H để thu đầy đủ gốc và lãi mà Công ty K còn nợ.
Ông B và bà H đề nghị Luật sư bảo vệ quyền lợi cho họ tại Tòa án.
Kỹ năng thu thập, cung cấp chứng cứ
Là người bảo vệ quyền lợi cho ông Trần Hải B và bà Nguyễn Thị H trong vụ án, Luật sư cần xác định rõ trọng tâm chứng minh trong vụ án là giảm nhẹ nghĩa vụ trả nợ và lãi của ông B và bà H so với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng P với tổng cộng nợ được tính toán và xác định rõ ràng, từ đó xác định các vấn đề cần phải chứng minh và thu thập các chứng cứ hợp lý để bảo vệ các quyền lợi của ông B và bà H. Luật sư cần rà soát từng vấn đề được trình bày sau đây để có định hướng thu thập chứng cứ và bảo đảm không bị bỏ sót các chứng cứ quan trọng:
– Chứng minh hợp đồng bảo đảm vô hiệu. Trong trường hợp này, ông B và bà H không phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Luật sư cần nghiên cứu kỹ hồ sơ được cung cấp và trao đổi cụ thể với khách hàng để xác định có hay không có việc ông B và bà H bị lừa dối khi ký hợp đồng bảo đảm; tài sản bảo đảm của hộ gia đình hay chỉ riêng của ông B và bà H; tài sản bảo đảm có bị tranh chấp vào thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm không; văn bản ủy quyền của bà H cho ông B có hợp pháp không và phạm vi ủy quyền có bao gồm việc ông B được toàn quyền mang tài sản đi thế chấp cho người khác vay vốn ngân hàng hay không; tài sản thực tế trên đất là gì, có đúng như tài sản ghi trong hợp đồng thế chấp không; có ai đóng góp xây dựng, tôn tạo tài sản không, có ai có quyền lợi liên quan đến tài sản không. Từ đó, Luật sư có thể phát hiện ra những vấn đề quan trọng và tiến hành thu thập chứng cứ để củng cố cho hướng chứng minh này.
Luật sư tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ. Thực tiễn giải quyết vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm, khi nghiên cứu kỹ và đối chiếu với quy định của pháp luật, thu thập chứng cứ theo các vấn đề được xem xét thì rất nhiều trường hợp Luật sư chứng minh được hợp đồng bị vô hiệu. Do vậy, Luật sư cần chú trọng tiến hành việc xem xét, xác minh và thu thập chứng cứ về vấn đề này.
– Chứng minh số tiền được bảo đảm bằng tài sản của ông B và bà H chỉ là 5 tỷ đồng tiền gốc được giải ngân theo Khế ước nhận nợ số 101/2014/KUNN ngày 27/4/2014; Hợp đồng thế chấp số 101A/2014/HĐTC ngày 02/4/2014 không bảo đảm cho nợ lãi phát sinh từ khoản tiền gốc 5 tỷ đồng và khoản tiền gốc 2,3 tỷ đồng giải ngân theo Khế ước nhận nợ số 108.101/2014/KUNN ngày 15/6/2014. Luật sư cần thu thập chứng cứ là các khế ước nhận nợ bằng việc yêu cầu Tòa án cho sao chụp từ hồ sơ vụ án hoặc bằng việc có văn bản yêu cầu Ngân hàng P cung cấp tài liệu hoặc yêu cầu Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTDS 2015, nếu Luật sư đã yêu cầu mà ngân hàng không cung cấp. Ngoài ra, Luật sư cũng có thể sử dụng những buổi đàm phán về thu hồi nợ, xử lý tài sản bảo đảm giữa khách hàng và ngân hàng để yêu cầu ngân hàng cung cấp những tài liệu, hồ sơ cần thiết, với lý do phục vụ cho việc đàm phán, lập phương án trả nợ.
– Chứng minh số tiền vay vốn đã bị ông Trần Hải H chiếm đoạt và bỏ trốn, thực chất Công ty K không được nhận và không được sử dụng số tiền này. Như vậy, trách nhiệm thuộc về cá nhân ông H, đề nghị khởi tố vụ án hình sự để xử lý trách nhiệm hình sự của ông H, tạm đình chỉ vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng này. Đây là một hướng chứng minh sẽ mang đến bước ngoặt trong việc giải quyết vụ án này, làm phát sinh căn cứ để Tòa án quyết định tạm đình chỉ vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 214 BLTTDS Chứng cứ có thể thu thập từ tài liệu kế toán, tài liệu giao dịch ngân hàng của Công ty K tại chính Công ty K, tại ngân hàng phục vụ Công ty K hoặc tại Ngân hàng P thể hiện khoản tiền giải ngân từ Ngân hàng P không về đến tài khoản của Công ty K mà được chuyển cho ông H và đồng bọn hoặc về tài khoản nhưng sau đó bị ông H và đồng bọn rút ra một phần hoặc toàn bộ từ tài khoản để chiếm đoạt hoặc thể hiện khoản tiền đã bị ông H tự ý sử dụng sai mục đích.
Trong trường hợp này, quyền lợi của ông B và bà H trùng với quyền lợi của Công ty K, do vậy Luật sư cần phối hợp chặt chẽ với Công ty K để thu thập và cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Trong trường hợp Công ty K không hợp tác cung cấp và thu thập chứng cứ, Luật sư có thể tiến hành thu thập chứng cứ từ Công ty K, Ngân hàng P, ngân hàng phục vụ Công ty K hoặc yêu cầu Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 6 và khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015.
– Chứng minh Công ty K vẫn còn hoạt động, vẫn có nguồn thu và phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng P: Luật sư tìm hiểu thông tin để định hướng chứng minh theo phương án này trong trường hợp không chứng minh được để Tòa án quyết định tạm đình chỉ vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng theo điểm d khoản 1 Điều 214 BLTTDS 2015 như nêu trên. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong một số trường hợp, cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đánh đồng vai trò đại diện đương sự của người đại diện theo pháp luật của tổ chức với tư cách đương sự của tổ chức. Trong vụ án này, Ngân hàng P khởi kiện Công ty K là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do ông H làm Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật, ông Nguyễn Văn Đ là Chủ tịch Hội đồng thành viên của Công ty. Do vậy, việc ông H bỏ trốn khỏi địa phương và không làm việc tại Công ty K không loại bỏ trách nhiệm của Công ty K do đây là khoản vay của Công ty K, không phải của cá nhân ông H.
Luật sư có thể thu thập chứng cứ về việc Công ty K vẫn còn hoạt động, vẫn có nguồn thu và vẫn có khả năng trả nợ cho Ngân hàng P thông qua thu thập những hợp đồng, văn bản giao dịch của Công ty K tại các đối tác của Công ty K; thông qua thu thập bảng kê nộp thuế, chứng từ nộp thuế, báo cáo thuế của Công ty K tại Chi cục thuế thành phố T, tỉnh T; thu thập thông tin giao dịch tài khoản tại ngân hàng phục vụ Công ty K; lời khai của các nhân chứng là cán bộ, nhân viên của Công ty K; các văn bản giao dịch, hợp đồng cơ cấu lại nợ, thỏa thuận miễn giảm lãi do công ty ký kết với Ngân hàng P trong quá trình xử lý nợ.
Bên cạnh đó, việc chứng minh hợp đồng tín dụng bị vô hiệu do khoản vay chưa được Hội đồng thành viên Công ty K thông qua nếu Điều lệ Công ty K quy định như vậy là có thể đặt ra và có thể thực hiện được. Luật sư có thể tự mình tiến hành việc thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTDS. Tuy nhiên, Luật sư cần cân nhắc và tư vấn cho khách hàng của mình về việc không nên đi theo hướng này, vì pháp luật quy định (Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP): trừ trường hợp có thỏa thuận của các bên, hợp đồng tín dụng bị vô hiệu mà các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng tín dụng thì hợp đồng bảo đảm không chấm dứt.
– Chứng minh số tiền 700 triệu Công ty K trả nợ là trả cho Khế ước nhận nợ số 101/2014/KUNN ngày 27/4/2014. Khi chứng minh được vấn đề này thì trách nhiệm trả nợ thay của ông B và bà H sẽ được giảm đi tương ứng.
Theo thông lệ hoạt động tín dụng ngân hàng thì khoản cho vay nào đến hạn trước sẽ được thu nợ trước theo phân kỳ trả nợ. Khế ước nhận nợ số 107.101/2014/KUNN ký ngày 27/4/2014, sau đó gần 2 tháng, ngày 15/6/2014, Khế ước nhận nợ số 108.101/2014/KUNN mới được ký. Cả hai khế ước đều có thời hạn 6 tháng, phân kỳ trả nợ gốc 3 tháng 1 lần. Như vậy, khi Công ty K trả được 1 kỳ gốc đầu tiên trong 3 tháng sau khi vay nợ thì về nguyên tắc, đó là phân kỳ trả nợ đầu tiên của Khế ước nhận nợ số 107.101/2014/KUNN ký ngày 27/4/2014. Sau khi Ngân hàng P thu 700 triệu tiền nợ gốc này thì khoản nợ gốc 5 tỷ của Khế ước nhận nợ số 107.101/2011/KUNN ký ngày 27/4/2014 chỉ còn 4,3 tỷ đồng.
Để thu thập được chứng cứ này, Luật sư có thể tự mình có văn bản yêu cầu Công ty K cung cấp chứng từ trả nợ và tài liệu đối chiếu công nợ theo từng khế ước với Ngân hàng P. Luật sư cũng có thể yêu cầu Ngân hàng P cung cấp chứng từ giao dịch thu nợ gốc số tiền 700 triệu này, chứng từ hạch toán, cung cấp sao kê tín dụng đối với khoản vay theo Khế ước nhận nợ số 107.101/2014/KUNN ký ngày 27/4/2014, cung cấp tài liệu đối chiếu công nợ theo từng khế ước với Công ty K. Trong trường hợp không nhận được sự hợp tác của các tổ chức này, Luật sư có thể hướng dẫn khách hàng làm đơn đề nghị Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTDS.
– Chứng minh gia đình ông B và bà H chỉ có một ngôi nhà này là nơi cư trú, sinh sống của cả gia đình, khả năng tài chính của ông B và bà H không đủ để lo một nơi ở khác, việc phát mại sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống của cả gia đình. Trong trường hợp các nỗ lực chứng minh nêu trên đều không có hiệu quả và ông B, bà H muốn trả tiền để giữ lại tài sản đã thế chấp, Luật sư cần chuyển sang hướng chứng minh này với mục tiêu giữ lại tài sản thế chấp và trả nợ dần.
Để thu thập được chứng cứ này, Luật sư cần đề nghị ông B và bà H cung cấp tài liệu hoặc Luật sư lấy lời khai của họ thể hiện quá trình tạo lập, hình thành tài sản, quá trình sinh sống của cả gia đình tại ngôi nhà, mức thu nhập và khả năng tài chính, mức độ ảnh hưởng đối với đời sống của gia đình, tình hình sức khỏe và tâm lý, tinh thần của từng thành viên gia đình nếu bị mất nơi sinh sống.
Trong quá trình yêu cầu Ngân hàng P và ngân hàng phục vụ Công ty K cung cấp hồ sơ, tài liệu, thông tin giao dịch, Luật sư cần lưu ý đến quy định pháp luật về bảo mật trong ngành ngân hàng (khoản 3 Điều 10 Luật CTCTD, Điều 2 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP, Thông tư số 10/2009/TT-NHNN, Điều 11 Quyết định số 1087/2003/QĐ-NHNN, Quyết định số 316/2004/QĐ-NHNN, khoản 15 Điều 5 Quyết định số 45/2007/QĐ-NHNN) để tránh việc căng thẳng trong quan hệ hoặc những rắc rối, phức tạp cho mình trong quá trình thu thập chứng cứ từ ngân hàng.
Kỹ năng của Luật sư thu thập chứng cứ trong các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tương tự như các loại án khác trong việc sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ và đề nghị Tòa án áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Sự đặc thù trong hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư khi tham gia giải quyết các tranh chấp về hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm xuất phát từ đặc trưng của loại án được luật nội dung điều chỉnh và trọng tâm vấn đề cần chứng minh của vụ án trên cơ sở xác định những mâu thuẫn về chứng cứ, về yêu cầu của các đương sự và có thể có những mâu thuẫn trong việc hiểu và áp dụng điều luật. Trong đó, trọng tâm là các chứng cứ thu thập nhằm hướng tới mục đích chứng minh hiệu lực pháp lý của hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay; các thỏa thuận của các bên trong hợp đồng và quá trình thực hiện thỏa thuận, xác định thiệt hại, lỗi của các bên để từ đó xác định các chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng, lỗi do vi phạm hợp đồng, lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu, chế tài phạt vi phạm thông qua lãi suất quá hạn.
Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung
Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585
Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn