[TƯ VẤN LUẬT DÂN SỰ] Nhận diện về quan hệ pháp luật tranh chấp, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Cấu trúc căn bản cần nhận diện đối với một quan hệ pháp luật dân sự liên quan đến ba yếu tố là chủ thể, khách thể và nội dung mối quan hệ. Trong quan hệ hợp đồng, khi một bên ký kết có hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận, gây thiệt hại cho bên chủ thể ký kết khác thì việc bồi thường thiệt hại sẽ được giải quyết trong khuôn khổ quan hệ hợp đồng đã ký kết.

So với quan hệ hợp đồng, quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi có sự kiện pháp lý gây thiệt hại từ hành vi trái pháp luật do một chủ thể quan hệ pháp luật đối với một chủ thể khác. Trong thực tiễn, hầu hết các hành vi trái pháp luật của các chủ thể, dưới nhiều hình thức khác nhau đều có thể gây ra những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín cho chủ thể khác.

Kế thừa và sửa đổi quy định tại Điều 604 BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 ghi nhận:Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

Đây là loại trách nhiệm dân sự mang tính tài sản, nhằm khôi phục tình trạng tài sản và xác lập lại các quyền, lợi ích bị xâm hại của người bị thiệt hại. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm bồi thường luôn mang đến những bất lợi về tài sản cho người gây ra thiệt hại để bù đắp những tổn thất đã gây ra cho các chủ thể khác.

Để có thể tư vấn và hỗ trợ cho khách hàng một cách thực sự có hiệu quả trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trước hết, Luật sư cần có sự nhận diện cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để phân biệt được với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.

Đặc biệt, trong trường hợp có sự giao thoa giữa hai loại trách nhiệm này nhìn từ sự kiện pháp lý làm phát sinh trách nhiệm giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Sự kiện pháp lý sẽ được soi rọi để làm sáng tỏ trên cơ sở làm sáng tỏ căn cứ phát sinh trách nhiệm.

Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS (2005) về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP), thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ phát sinh khi hội tụ đủ các yếu tố:

(i) Có thiệt hại xảy ra;

(ii) Có hành vi trái pháp luật;

(iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật gây thiệt hại;

(iv) Có lỗi của người gây thiệt hại.

Đến BLDS 2015 mặc dù yếu tố lỗi không còn nằm trong danh sách các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng lỗi vẫn còn nguyên giá trị khi xem xét, đánh giá mức độ thiệt hại được bồi thường.

– Có thiệt hại xảy ra:

Nhận diện, đánh giá đúng và phù hợp về thiệt hại xảy ra trong giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là yêu cầu bắt buộc, có ý nghĩa quyết định khi đặt vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại giữa các bên có liên quan.

Thông thường, thiệt hại được hiểu là sự mất mát hoặc giảm sút về lợi ích vật chất (theo cách hiểu của Luật La Mã gồm thiệt hại thực, là sự mất đi của một tài sản cụ thể và bỏ mất lợi tức, là sự mất mát tài sản có thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường, hay còn gọi là thiệt hại phái sinh) có thể tính toán được thành một số tiền nhất định và các tổn thất về tinh thần. Về cơ bản, các khoản thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần được xác định bao gồm:

+ Những chi phí phải bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế hoặc khắc phục thiệt hại (gồm tiền thuốc, tiền điều trị, bồi dưỡng; tiền mai táng phí; tiền sửa chữa tài sản…);

+ Những tổn thất về tài sản (bị mất, bị hư hỏng…);

+ Những thu nhập không thu được hoặc bị giảm sút (của người bị thiệt hại hoặc người chăm sóc người bị thiệt hại, nếu có);

+ Khoản bù đắp tổn thất về tinh thần.

Đối với Luật sư, muốn bảo vệ tốt nhất và tối đa quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng thì phải hiểu rõ nguyên tắc xác định thiệt hại để có thể tính toán thiệt hại thành một khoản tiền nhất định, làm căn cứ đề nghị Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Một trong những nguyên tắc căn bản khi giải quyết bồi thường thiệt hại là chỉ bồi thường đối với thiệt hại chắc chắn, thực tế (tức là không phải thiệt hại do suy diễn) và chưa được bồi thường.

Điều này có nghĩa, người bị thiệt hại phải có nghĩa vụ chứng minh có thiệt hại xảy ra thông qua các tài liệu, chứng cứ chứng tỏ những thiệt hại mình đã phải gánh chịu, như các chứng từ thanh toán việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe; tiền mai táng phí; tiền sửa chữa tài sản; chi phí để cơ quan có thẩm quyền ban hành kết luận giám định…, đồng thời thiệt hại xảy ra phải có tính thực tế, có thể tính toán được.

Người phải bồi thường có quyền phản bác những thiệt hại không thực tế mà người bị thiệt hại đã đưa ra yêu cầu đòi bồi thường. Vì vậy, dù là Luật sư của một bên nhưng vẫn cần xem xét toàn bộ vụ án từ mọi phương diện để có thể giúp khách hàng định lượng và lý giải được mức bồi thường khi đặt vấn đề bù đắp thiệt hại một cách tương xứng.

Luật sư cũng cần lưu ý đối với các trường hợp xác định thiệt hại gián tiếp để tránh nhầm lẫn giữa thiệt hại gián tiếp và việc “mất đi một cơ may”, vốn không được pháp luật thừa nhận là một phần thiệt hại cần được bồi thường.

Ví dụ 1:

Anh A bị tai nạn trên đường đi ký kết hợp đồng phải nằm viện điều trị nên anh A mất đi cơ hội ký được hợp đồng với khách hàng. Trong trường hợp này không thể bắt người gây thiệt hại phải đền bù khoản thiệt hại do anh A không ký kết được hợp đồng. Nhưng, nếu ở trong bối cảnh người bị nạn vừa ký được hợp đồng lao động một năm nhưng do bị tai nạn phải điều trị dẫn đến mất đi việc làm theo hợp đồng đã ký thì người gây thiệt hại phải đền bù khoản thiệt hại gián tiếp này (đây là khoản đền bù do thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại).

Những thiệt hại về vật chất có thể tính toán được một cách tương đối chính xác bằng một khoản tiền thì những thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân là sự đau đớn, xấu hổ, mất uy tín, bị bạn bè xa lánh… của người bị thiệt hại và nỗi đau thương, buồn phiền, cảnh cô đơn, góa bụa của những người thân thích, gần gũi nhất của người bị thiệt hại phải chịu cũng được xác định bằng một khoản tiền, nhằm bù đắp phần nào những tổn thất tinh thần mà họ và những người thân đã phải gánh chịu.

Đối với pháp nhân và các chủ thể khác không có tư cách pháp nhân (gọi chung là tổ chức) thì thiệt hại do tổn thất về tinh thần của họ được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm, được xác định bằng một khoản tiền bồi thường, nhằm bù đắp tổn thất mà tổ chức đó phải gánh chịu.

– Phải có hành vi trái pháp luật:

Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.

– Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật gây thiệt hại:

Một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự theo quy định của BLDS là gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật.

Hành vi này được hiểu là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật và là nguyên nhân gây ra thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ không phát sinh nếu thiệt hại xảy ra không phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật từ phía người gây thiệt hại. Trong thực tế, một số trường hợp mặc dù chủ thể gây thiệt hại thực hiện hoạt động hoàn toàn hợp pháp nhưng vẫn phải bồi thường.

Ví dụ 2:

Thiệt hại xảy ra khi chủ sở hữu nhà tiến hành thi công xây dựng, sửa chữa nhà theo đúng giấy phép nhưng gây lún, nứt cho các công trình liền kề thì chủ sở hữu vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường theo Điều 589 BLDS 2015 (Điều 608 BLDS 2005), vì việc xây dựng của chủ sở hữu chính là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho các công trình liền kề.

Trong quá trình xác định trách nhiệm bồi thường, các Luật sư cần xét đến mối quan hệ tổng hợp giữa các nguyên nhân, bởi nó cũng bao hàm sự tác động qua lại của nhiều hiện tượng chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại nhằm bảo đảm tính khách quan của sự vật, hiện tượng.

Đặc biệt, không thể chỉ căn cứ vào một sự kiện ngẫu nhiên rồi suy đoán, nhận định theo ý thức chủ quan của chính Luật sư.

– Có lỗi của người gây thiệt hại:

Hành vi gây thiệt hại sẽ bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện để tự do lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với lợi ích của xã hội, Nhà nước và các chủ thể khác. Điều 364 BLDS 2015 (Điều 308 BLDS 2005) quy định hai hình thức lỗi trong trách nhiệm dân sự là:

+ Lỗi cố ý gây thiệt hại được hiểu là một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

+ Lỗi vô ý gây thiệt hại được hiểu là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Sự phân biệt mức độ lỗi cố ý và vô ý là căn cứ để xem xét giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người có hành vi gây thiệt hại do lỗi vô ý đã gây ra thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình theo quy định tại khoản 2 Điều 585 BLDS 2015 (khoản 2 Điều 605 BLDS 2005) về “nguyên tắc bồi thường thiệt hại”.

Đối với những vụ án phức tạp, thiệt hại xảy ra do lỗi hỗn hợp của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại thì Luật sư cần phân tích để nhận diện chính xác mức độ lỗi của các bên trên cơ sở mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra tương ứng với mức độ lỗi của mỗi bên để tính toán các khoản đền bù thiệt hại cho phù hợp. Nếu lỗi hoàn toàn thuộc về phía người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại đó.

Cần chú ý, BLDS còn có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi trong một số trường hợp như:

Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường;

Bồi thường thiệt hại do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra…

Như vậy, đối với trường hợp pháp luật  có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.

Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung

Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585

Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn

Bài viết liên quan