[TƯ VẤN LUẬT HÌNH SỰ] Kỹ năng của luật sư trong phần xét hỏi

BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về quyền của Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi theo hướng Chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Khi xét hỏi từng người, Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản. Như vậy, Luật sư chỉ được hỏi sau khi HĐXX, Kiểm sát viên đã hỏi.

Để việc bào chữa, bảo vệ đạt kết quả, Luật sư cần chú ý:

–  Theo dõi những câu hỏi của HĐXX, Kiểm sát viên xem các vấn đề cần hỏi đã được hỏi hết chưa, còn vấn đề nào liên quan đến khách hàng chưa được hỏi.

–  Theo dõi phát hiện lời khai của người tham gia tố tụng nào có lợi, lời khai nào bất lợi cho khách hàng.

–  Theo dõi việc hỏi của HĐXX, Kiểm sát viên và Luật sư khác có vi phạm thủ tục tố tụng không.

Thông thường khi tham gia phiên tòa, dù là bị cáo hay bị hại thì thường họ hay bị áp lực và mất bình tĩnh bởi những câu hỏi dồn dập mang tính áp đặt của Kiểm sát viên, các thành viên HĐXX và cả Luật sư phía đối lập nên khó có thể trả lời câu hỏi một cách chính xác. Có những trường hợp Kiểm sát viên đặt những câu hỏi phiến diện, thiếu khách quan, đặt câu hỏi gợi ý hướng bị cáo khai nhận tội hoặc có hiện tượng bức cung hỏi dồn dập không cho bị cáo có thời gian suy nghĩ trả lời hoặc phát hiện những vi phạm thủ tục tố tụng khác xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của khách hàng…

Đối với những trường hợp này, Luật sư cần phải có ý kiến phản đối việc Kiểm sát viên hay HĐXX đặt ra những câu hỏi như vậy. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo tâm lý ổn định và sự bình tĩnh cho bị cáo, nhất là những bị cáo là người dưới 18 tuổi. Việc xét hỏi bị cáo là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa phải theo quy định của BLTTHS và phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của bị cáo.

Kỹ năng lắng nghe và ghi chép

Để nắm được các tình tiết của vụ án, kết hợp với việc nghe, theo dõi diễn biến phiên tòa, Luật sư cần ghi chép những điểm quan trọng có liên quan đến việc bảo vệ cho bị cáo hoặc đương sự. Thông thường Luật sư cần ghi lại lời trình bày của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, yêu cầu chung là ghi tóm tắt lời khai, sao cho vừa đầy đủ, ngắn gọn nhưng vẫn phản ánh được nội dung chính.

Ở nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Luật sư cần ghi ngắn gọn (tốt nhất là ghi tốc ký, sử dụng biểu tượng, lược đồ…) những nội dung câu trả lời:

–  Thể hiện hoàn cảnh phạm tội, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, đặc biệt là hành vi phạm tội, ý thức chủ quan của người phạm tội để phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích;

–  Tình trạng tinh thần có bị kích động mạnh không để phân biệt giết người với giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;

–  Có yếu tố vượt quá không để phân biệt giết người, cố ý gây thương tích với giết người, cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

–  Có sử dụng vũ lực trong các tội hiếp dâm không…

Trong trường hợp HĐXX hỏi những bị cáo khác (trong vụ án đồng phạm) về các tội phạm hoặc những vấn đề không liên quan đến bị cáo hoặc đương sự mà mình bảo vệ thì Luật sư chỉ nghe mà không cần đầu tư quá nhiều cho việc ghi chép.

Kỹ thuật đặt câu hỏi

Từ nguyên tắc những câu hỏi phải làm rõ các tình tiết của vụ án sao cho có lợi cho người mình bào chữa, bảo vệ, câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và không làm cho người được hỏi hiểu theo nhiều nghĩa.

Ví dụ:

–  Tránh đặt câu hỏi như “bị cáo cảm thấy thế nào khi trả thù bị hại?”. Câu hỏi này có thể khiến khách hàng trả lời theo hướng cảm thấy “ăn năn, day dứt” về hành vi phạm tội nhưng cũng hoàn toàn có thể theo hướng cảm thấy thực sự “nhẹ lòng khi trả được mối thù”.

–  Tránh việc đặt câu hỏi quá chung chung, dài dòng hoặc không rõ đó là câu hỏi hay câu giải thích, vì hỏi như vậy sẽ làm cho người bị hỏi không biết phải trả lời như thế nào.

Nếu muốn yêu cầu người bị hỏi giải thích một số điểm trong lời khai đã khai tại CQĐT của họ, Luật sư chuẩn bị sẵn lời khai này, đánh dấu những điểm cần hỏi để luôn luôn chủ động khi xét hỏi. Vì hỏi sau HĐXX và Kiểm sát viên nên nhiều trường hợp qua theo dõi thấy HĐXX, Kiểm sát viên đã hỏi rất cụ thể, chi tiết.

–  Luật sư nên hỏi làm rõ sự mâu thuẫn trong lời khai của người có lời khai bất lợi cho khách hàng bằng câu hỏi “vạch rõ sự gian dối”.

–  Tập trung hỏi làm rõ hoàn cảnh phạm tội do bị hại có lời nói xúc phạm bị cáo hoặc có hành động trái pháp luật gây ra đối với bị cáo hoặc người thân của bị cáo làm bị cáo bị kích động về tinh thần;

–  Vai trò của bị cáo trong vụ án không phải là người chủ mưu, người xúi dục như cáo buộc của VKS;

–  Không có sự chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội;

–  Hỏi làm rõ các tình tiết về nhân thân của bị cáo, gia đình có người thân có công với cách mạng, có thành tích trong công tác…

–  Hỏi làm rõ các tình tiết giảm nhẹ TNHS như sau khi gây thương tích đã chủ động băng bó vết thương, gọi xe đưa nạn nhân đi cấp cứu, đã tận tình thăm hỏi, bồi thường được một số tiền cho bị hại…

Để đề xuất áp dụng khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Trường hợp thấy trước đó khách hàng mình đã khai hoặc người tham gia tố tụng khác khai có lợi cho khách hàng mình nhưng còn thiếu, chưa rõ thì Luật sư cần sử dụng câu hỏi “bổ sung lời khai” để hỏi cho rõ hơn.

Ví dụ:

Trường hợp cần hỏi bổ sung khi thấy lời khai của khách hàng chưa đầy đủ nhưng nếu được khai thêm sẽ rõ hơn tình tiết sự việc qua vụ án giết người xảy ra ngày 02/02/2018 tại xã T, huyện LG, tỉnh BG.

Tại phiên tòa khi chủ tọa hỏi Đ về nguyên nhân dùng dao đâm bị hại T, bị cáo trả lời bị cáo cùng mọi người đi chơi lễ hội đình Bừng thấy có người đánh nhau nên chạy ra xem thì bị T chửi, hai bên xô xát, T đã dùng bản dao đập nhẹ vào người Đ nên Đ mới dùng dao đâm vào đùi T.

Lời khai của Đ chưa đầy đủ, chưa làm rõ sự việc T vô cớ hành hung bị cáo nhiều lần dẫn đến bị cáo bị kích động về tinh thần. Luật sư bào chữa cho Đ đặt câu hỏi bổ sung hỏi bị cáo ngoài việc bị hại dùng bản dao đập nhẹ một nhát vào vùng gáy của bị cáo như đã khai trước HĐXX thì bị hại còn có biểu hiện hay hành động gì với bị cáo làm bị cáo lấy dao đâm người bị hại không? Trả lời câu hỏi này, bị cáo sẽ khai rõ việc bị hại lần thứ hai có hành vi đấm vào mặt bị cáo nên bị cáo mới dùng dao đâm bị hại. Lời khai này bổ sung cho lời khai đã khai trước HĐXX làm cho đầy đủ hơn.

Trong khi hỏi, Luật sư cũng nên lưu ý thời lượng hỏi của Luật sư không nhiều, lại ở cuối phần xét hỏi nên câu hỏi cần ngắn gọn, tập trung vào những vấn đề mấu chốt; Câu hỏi sắc, gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án nhưng chưa được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho người mà mình bào chữa, bảo vệ; Tránh đặt những câu hỏi quá dài, không đi vào trọng tâm hoặc vừa đặt câu hỏi vừa phân tích, bình luận làm lẫn lộn với phần tranh luận để Chủ tọa phiên tòa phải nhắc nhở.

Tại phiên tòa nếu thấy lời khai của người tham gia tố tụng gây bất lợi cho khách hàng nhưng mâu thuẫn với lời khai của họ tại CQĐT thì đề nghị HĐXX công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra. Trong vụ án đồng phạm khi thấy bị cáo khác khai không đúng về hành vi, vị trí vai trò khách hàng cũng như lời khai của bị hại có điểm không chính xác về nguyên nhân xô xát, về hành vi cố ý gây thương tích của bị cáo hoặc công cụ, phương tiện sử dụng thực hiện tội phạm… nhưng thấy khách hàng trực tiếp hỏi bị cáo khác, hỏi bị hại sẽ sát hơn, làm rõ hơn tình tiết khai không đúng của bị cáo khác và bị hại thì Luật sư bào chữa đề nghị Chủ tọa phiên tòa cho bị cáo được trực tiếp hỏi những người đó để làm rõ sự thật vụ án.

Ví dụ:

Vụ án cố ý gây thương tích có nội dung như sau: Khoảng 17giờ ngày 10/9/2018, tại gia đình anh Vũ Sỹ Thành trú tại khu đô thị PĐ – phường ĐN – thị xã TS xảy ra việc xô xát, cãi chửi nhau giữa Đào Xuân Bắc và vợ chồng anh Thành. Lúc này, anh Phạm Văn Thìn, trú tại thôn B – xã HV – huyện Y – tỉnh BG (là em vợ anh Thành) đang trông coi công trình xây dựng cho vợ chồng anh Thành ở gần đó đi về nhà anh Thành lấy nước đá mang ra cho thợ uống. Thấy cãi nhau to tiếng anh Thìn hỏi anh Thành “Có việc gì thế”. Anh Thành trả lời “Bắc nó say rượu nói lằng nhằng không có chuyện gì đâu, bác cứ mang nước ra ngoài kia đi”. Vì vậy anh Thìn cầm túi đá đi sang công trình đang xây dựng, còn Bắc tiếp tục cãi chửi nhau với vợ chồng anh Thành ở trong nhà. Do có một mình và đang bị nhốt tại nhà anh Thành nên Bắc có điện thoại cho Đào Văn Nam (em ruột Bắc) đến nhà anh Thành. Sau đó đã xảy ra vụ đánh nhau: Bắc dùng tuýp sắt một đầu vát nhọn đâm, còn Nam dùng dao tông chém anh Phạm Văn Thìn (là anh vợ anh Thành) làm anh Thìn bị thương ở cánh tay, cẳng tay và mu bàn tay trái. Qua giám định, anh Thìn bị tổn hại 11% sức khỏe. VKS truy tố Bắc và Nam về tội cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015.

Khi Chủ tọa phiên tòa hỏi bị hại về việc chứng kiến sự việc tại nhà anh Thành. Thìn khai khi vào trong nhà tôi thấy anh Bắc chửi vợ chồng anh Thành và xông vào đấm anh Thành, rồi vớ chiếc xô nhựa ở gần ghế sa lông đánh anh Thành, cốc chén bị vỡ loảng xoảng. Tôi chạy vào can cũng bị Bắc dùng tuýp sắt đâm vào tay trái làm tôi bị thương. Rõ ràng lời khai việc xô xát giữa Bắc và gia đình nhà anh Thành không đúng như tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện Bắc một mình đến nhà anh Thành đòi nợ thì bị cả nhà anh Thành đánh, khóa cửa lại và rất khó khăn mới chạy được ra ngoài. Còn bị hại Thìn không trực tiếp chứng kiến việc xảy ra xô xát lúc ban đầu, nhưng lại khai như mình đã trực tiếp chứng kiến việc cãi chửi nhau giữa hai bên và đổ hết lỗi cho Bắc. Trong trường hợp này sự việc xô xát diễn ra như thế nào, có những ai tham gia, lúc nào anh Thìn có mặt, có thể chứng kiến được gì thì Bắc là người biết rõ hơn cả và nếu Bắc trực tiếp hỏi bị hại Thìn thì bị hại không thể khai sai sự thật được nên Luật sư đề nghị Chủ tọa phiên tòa cho Bắc có thể hỏi bị hại để làm rõ sự việc xô xát và nguyên nhân dẫn đến việc anh Thìn bị thương.

Kỹ năng sử dụng chứng cứ

Theo Điều 312 BLTTHS năm 2015, vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng có thể đưa ra xem xét tại phiên tòa. Trong nhiều trường hợp, Luật sư nhận thấy vật chứng không phù hợp với thương tích như vật chứng là vật sắc nhưng thương tích do vật chứng gây nên lại được mô tả là bờ mép không gọn, nham nhở, bầm dập các tổ chức xung quanh, lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra không rõ ràng về đặc điểm vật chứng, cách thức sử dụng vật chứng… thì Luật sư đề nghị HĐXX xem xét vật chứng, làm rõ điểm mâu thuẫn của vật chứng với thương tích. Đối với những vụ án mà vật chứng cồng kềnh hoặc các đồ vật cố định tại hiện trường, cấu tạo nội, ngoại thất hay đặc điểm tự nhiên của hiện trường (như nạn nhân bị bị cáo đẩy ngã về phía sau, đầu đập vào tay vịn cầu thang, ngã lăn nhiều lần trên các bậc cầu thang) không thể đưa ra xem xét tại phiên tòa được nhưng đang có nhiều điểm chưa rõ nếu chỉ xem bản ảnh hiện trường và gây bất lợi cho bị cáo thì Luật sư đề xuất HĐXX tiến hành việc xem xét tại chỗ theo Điều 314 BLTTHS năm 2015.

Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung

Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585

Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn

Bài viết liên quan