Trong nhóm tài liệu do hồi đồng định giá (HĐĐG) tài sản cung cấp, theo quy định của pháp luật gồm bản kết luận định giá và biên bản họp định giá tài sản.
Ngoài ra, Luật sư cần thu thập và nghiên cứu thêm:
– Quyết định về việc thành lập Hội đồng định giá thường xuyên của Ủy ban nhân dân cùng cấp;
– Quyết định thành lập Hội đồng định giá theo vụ việc;
– Các tài liệu mà Hội đồng định giá làm căn cứ để định giá tài sản;
– Các tài liệu được thu thập bởi ban giúp việc Hội đồng định giá như tài liệu khảo sát tài sản cần định giá;
– khảo sát giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá…
hành phần Hội đồng định giá
Luật sư cần chú ý kiểm tra chặt chẽ về số lượng thành viên HĐĐG, thành phần Hội đồng định giá tài sản, bảo đảm tất cả các thành viên của HĐĐG phải không thuộc các trường hợp không được tham gia định giá tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 69 BLTTHS năm 2015 và Điều 13 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP. Luật sư cần nghiên cứu danh sách các thành viên của HĐĐG thường xuyên do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng đối với HĐĐG theo vụ việc, đối chiếu với thực tế giải quyết của vụ việc để xác định họ có thuộc trường hợp phải từ chối tham gia định giá hay không. Trong tình huống họ thuộc trường hợp không được tham gia định giá nhưng không từ chối tham gia, thì phải cương quyết yêu cầu thay đổi thành phần HĐĐG.
Luật sư cần lưu ý quy định tại khoản 6 Điều 7 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP: “Đối với cùng một tài sản được cơ quan có thẩm quyền trưng cầu định giá, trường hợp Hội đồng định giá thường xuyên đã được thành lập để tiến hành định giá đối với tài sản này thì không thành lập Hội đồng định giá theo vụ việc theo quy định tại Điều 6 Nghị định này”. Tức là, đối với tài sản cần định giá thuộc phạm vi và khả năng chuyên môn của Hội đồng định giá thường xuyên đã được thành lập rồi, thì sẽ do Hội đồng định giá thường xuyên thực hiện và không được thành lập HĐĐG theo vụ việc để định giá đối với loại tài sản đó. Trong trường hợp này, Luật sư đặc biệt chú ý là, tùy theo đặc thù của tài sản và yêu cầu định giá thì Luật sư cần lưu ý thành phần HĐĐG có cán bộ chuyên môn có trình độ chuyên sâu về tài sản, lĩnh vực cần định giá không?
Có trường hợp: Hội đồng định giá đã không mời cán bộ có trình độ chuyên môn liên quan đến ô tô để định giá tài sản khiến cho vụ án bị kéo dài vì phải định giá bổ sung, định giá lại nhiều lần ở nhiều cấp hội đồng khác nhau.
Hay trường hợp: các tài sản cần định giá có nhiều chủng loại khác nhau như thiết bị điện, công trình xây dựng, vật dụng được làm bằng gỗ tự nhiên… Tuy nhiên, Hội đồng định giá lại không có các cán bộ chuyên môn am hiểu về các lĩnh vực này dẫn đến việc định giá không chính xác. Vụ án này đặt ra một vấn đề trong trường hợp người bị hại khiếu nại và đề nghị định giá lại để bảo đảm đúng với giá trị tài sản bị hủy hoại thì vụ án sẽ bị kéo dài và quan trọng hơn cả là các tài sản cần định giá lại do không được niêm phong, không được bảo quản theo đúng quy định của pháp luật nên không còn cơ sở để định giá lại. Việc định tội danh, định khung hình phạt cũng như bồi thường thiệt hại sẽ không còn chính xác nữa.
Trường hợp khác: việc định giá đã vi phạm nghiêm trọng về số lượng thành viên của Hội hội đồng định giá trong trong tố tụng hình sự. Pháp luật quy định số lượng thành viên phải là số lẻ trong khi đó, quyết định thành lập Hội đồng định giá con số này lại là 04 người, dẫn đến VKS phải trả hồ sơ điều tra bổ sung và yêu cầu định giá lại theo đúng quy định pháp luật.
Biên bản phiên họp của HĐĐG tài sản và bản kết luận định giá
Do biên bản phiên họp định giá tài sản là căn cứ duy nhất để Hội đồng định giá tài sản kết luận định giá. Đồng thời, là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Hội đồng định giá giải thích kết luận định giá; Xác định kết luận định giá có đúng, đầy đủ hay không để yêu cầu định giá bổ sung, định giá lại. Do vậy, cần phải được kiểm soát thật chặt chẽ. Theo đó:
Một là, khi nghiên cứu biên bản phiên họp định giá tài sản cần lưu ý điều kiện để tiến hành phiên họp, theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP, đó là: “Phiên họp định giá tài sản chỉ được tiến hành khi có mặt ít nhất 2/3 số lượng thành viên của Hội đồng định giá tham dự. Trường hợp Hội đồng định giá chỉ có 03 thành viên thì phiên họp phải có mặt đủ 03 thành viên”. Trong mọi trường hợp không đủ điều kiện nêu trên, kết quả phiên họp không có giá trị pháp lý.
Hai là, biên bản phiên họp định giá phải được lập đúng và đầy đủ theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP. Ngoài ra, đặc biệt lưu ý các nội dung: Căn cứ xác định giá; Kết quả khảo sát giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá; Phương pháp định giá bảo đảm đúng theo quy định tại Điều 15, Điều 16 và Điều 17 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP; Thông tư số 30/2020/TT-BTC ngày 01/6/2020 của Bộ Tài chính, đặc biệt trong các trường hợp tài sản định giá không còn hoặc bị thất lạc. Trong biên bản phải ghi nhận ý kiến của các thành viên Hội đồng và những người tham dự phiên họp định giá tài sản; Kết quả biểu quyết của Hội đồng định giá về giá của tài sản, theo quy định tại các điểm d, đ, e khoản 2 Điều 19 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP.
Ba là, biên bản phiên họp định giá phải ghi rõ ràng, chi tiết từng bộ phận tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng và xác định cụ thể giá trị của từng bộ phận bị hủy hoại hoặc hư hỏng đó, tránh tình trạng chỉ xác định tổng giá trị thiệt hại của các bộ phận…
Tại ví dụ 12 chúng ta thấy:
Thứ nhất, thành phần Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của tỉnh không có cán bộ am hiểu chuyên môn về ô tô.
Để bảo đảm khách quan, khi họp định giá Hội đồng có thể mời đại diện cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có yêu cầu định giá tài sản, đại diện các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản cần định giá được tham dự phiên họp định giá tài sản nhưng trên thực tế Hội đồng đã không mời những người này tham dự.
Thứ hai, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh đã vi phạm nguyên tắc định giá tài sản được quy định tại tiết a điểm 1 Nguyên tắc định giá tài sản thuộc phần II Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 02/3/2005 của Bộ Tài chính: “Đối với tài sản không mua bán phổ biến trên thị trường (tài sản chuyên dùng, đơn chiếc), giá tài sản cần xác định phải bảo đảm được chi phí tái tạo lại tài sản hoặc chi phí nhập khẩu tài sản đó tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm”.
Theo hồ sơ vụ án thì xe ô tô MERCEDES – S350 BKS29A-119.xx là tài sản nhập khẩu nguyên chiếc, không phổ biến trên thị trường. Tại bản kết luận của HĐĐG cũng khẳng định: “… tài sản thuộc hãng MERCEDES là dòng nhập khẩu nguyên chiếc, ít bán phổ thông trên thị trường Việt Nam”. Do đó khi định giá phải bảo đảm được chi phí tái tạo lại tài sản hoặc chi phí nhập khẩu tài sản đó, thì mới đạt được mức độ sử dụng tốt nhất có khả năng mang lại giá trị cao nhất, hiệu quả nhất của tài sản như quy định tại tiết e điểm 2 của Thông tư. Tuy nhiên trên thực tế, Hội đồng định giá đã trừ khấu hao tài sản đến mức không đủ chi phí để sửa chữa cũng như nhập khẩu, từ 1.629.628.500 đồng xuống còn 849.075.000 đồng là không đúng quy định pháp luật.
Một sai phạm nữa trong phương pháp định giá, đó là xác định thời điểm trích khấu hao. Theo quy định pháp luật thì: “Hao mòn tài sản cố định là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị của tài sản cố định do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ kỹ thuật… trong quá trình hoạt động của tài sản cố định”. Trong khi đó, Luật Giao thông đường bộ quy định về điều kiện tham gia giao thông của xe cơ giới: “Xe cơ giới phải đăng ký và gắn biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp” mới được tham gia giao thông. Điều này có nghĩa rằng thời điểm tính khấu hao của tài sản phải được tính từ thời điểm chiếc xe ô tô được đăng ký và đưa vào sử dụng, không phải từ thời điểm mua bán hay thời điểm sản xuất như cách tính của Hội đồng định giá.
Thứ ba, ngày 24/12/2018 HĐĐG tỉnh đã có kết luận định giá với giá trị 1.629.628.500 đồng nhưng nửa năm sau, ngày 12/6/2019 Hội đồng định giá tỉnh lại tiếp tục họp để xác định lại giá trị tài sản định giá với một kết quả khác là 849.075.000 đồng. Trong khi pháp luật quy định: “Việc định giá lại một phần hoặc toàn bộ tài sản được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có nghi ngờ về kết quả định giá hoặc có mâu thuẫn giữa các kết luận định giá về giá của tài sản cần định giá. Việc định giá lại phải do Hội đồng định giá tài sản cấp trên trực tiếp thực hiện”. Như vậy, việc định giá lại phải do Hội đồng định giá cấp trên mà không phải là Hội đồng cấp tỉnh.
Tại ví dụ 11, chúng ta thấy Hội đồng định giá tài sản đã đưa ra giá tài sản của cả hai lần hủy hoại ngày 07/3/2017 và lần hủy hoại ngày 14/3/2018 nhưng tại biên bản họp định giá lại không thể hiện việc khảo sát giá ở hai thời điểm thực hiện hành vi phạm tội này là trái quy định pháp luật.
Có thể nói, cơ sở để họp định giá tài sản phải xuất phát từ các căn cứ định giá được cơ quan cảnh sát điều tra cung cấp và trên cơ sở thu thập, khảo sát của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, từ đó đưa ra bản kết luận định giá tài sản là đặc biệt quan trọng. Giá trị thực của tài sản bị hủy hoại có chính xác hay không, về cơ bản đều căn cứ vào các tài liệu này. Tuy nhiên trong thực tế, các tài liệu do cơ quan tố tụng cung cấp chưa đầy đủ, chính xác, chưa phản ánh đủ các điều kiện làm cơ sở để Hội đồng định giá. Trong quá trình định giá, do hạn chế về nhân lực, trình độ cũng như các điều kiện kinh tế tại địa phương dẫn đến nhiều trường hợp, Hội đồng định giá không thể tiến hành khảo sát giá cũng như thu thập chưa đầy đủ các căn cứ để định giá, vì vậy, việc định giá tài sản không sát với giá thị trường, không đúng giá trị của tài sản bị hủy hoại, bị xâm hại.
Trong một vụ án truy tố Chấp hành viên về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại tỉnh BĐ, theo cáo trạng, hậu quả nghiêm trọng được cho là do Chấp hành viên không xác minh đầy đủ điều kiện thi hành án dẫn đến việc Chấp hành viên đã kê biên không đúng tài sản của người phải thi hành án, khiến cho chủ tài sản không lấy được tài sản để bán ở tại thời điểm Chấp hành viên tạm giữ, niêm phong. Khi chủ tài sản lấy được tài sản thì tài sản đã bị suy giảm về chất lượng dẫn đến thiệt hại cho chủ tài sản. Trong vụ án này, CQĐT đã trưng cầu tới hai hội đồng định giá của hai tỉnh khác nhau là tỉnh GL và tỉnh BĐ. Trong quá trình định giá, Hội đồng định giá tỉnh GL thì căn cứ vào giá mua vào của tài sản để ra kết luận định giá. Hội đồng định giá tỉnh BĐ thì không khảo sát đầy đủ loại tài sản tương đương về giá trị trên thị trường tại thời điểm cần định giá mà căn cứ vào các tài liệu do CQĐT cung cấp để làm căn cứ định giá và ra bản kết luận định giá lớn hơn kết quả của Hội đồng định giá tỉnh GL. Các tài liệu này vốn là các hợp đồng mua bán mà phía người bị hại cho rằng đã ký kết với các khách hàng nhưng không bán được vì thời hạn giao hàng cùng với thời gian mà Chấp hành viên tạm giữ lô hàng. Cả hai Hội đồng định giá đều không trưng cầu cơ quan chuyên môn giám định chất lượng hàng hóa thực tế. Không yêu cầu CQĐT cung cấp văn bản xác định chất lượng trước thời điểm chấp hành viên tạm giữ để kê biên. Có thể thấy, việc sử dụng giá từ các hợp đồng do bị hại cung cấp để làm một trong những căn cứ định giá là không khách quan, không đúng với giá trị thực của tài sản cần định giá.
Một vấn đề mà Luật sư cần hết sức chú ý, đó là phải xem xét cơ quan tiến hành tố tụng có bảo đảm quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với các quy định của pháp luật có liên quan đến kết luận định giá tài sản (Điều 214 và Điều 222 BLTTHS năm 2015).
Các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có liên quan trong vụ án về đề nghị định giá, được thông báo và trình bày ý kiến về kết luận, theo đó:
– Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị định giá tài sản của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra văn bản yêu cầu định giá tài sản.
– Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được kết luận định giá tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo kết luận định giá tài sản cho bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có liên quan.
– Bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận định giá, đề nghị định giá lại. Trường hợp Luật sư trình bày trực tiếp thì CQĐT, VKS, Tòa án phải tiến hành lập biên bản.
Trường hợp CQĐT, VKS, Tòa án không chấp nhận đề nghị thì phải thông báo cho người đề nghị bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Khi nghiên cứu các tài liệu định giá, Luật sư cũng cần chú ý hình thức của bản kết luận định giá phải đúng quy định pháp luật. Vì trên thực tế, có nhiều địa phương sau khi họp định giá không ra bản kết luận định giá mà là một công văn mang tính thông báo về kết luận định giá hoặc có nơi chỉ gửi cho cơ quan tố tụng biên bản định giá tài sản. Có địa phương, bản kết luận định giá chỉ duy nhất Chủ tịch Hội đồng định giá ký tên trong khi pháp luật quy định phải có đầy đủ chữ ký của thành viên trong hội đồng định giá.
Tại khoản 4 Điều 101 BLTTHS năm 2015 quy định: “Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản vi phạm quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật về định giá thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án”.
Như vậy có thể thấy, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác, Luật sư phải vận dụng các kỹ năng và những hiểu biết của mình để chỉ ra những vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng. Từ đó, Luật sư phải đưa ra những yêu cầu, kiến nghị với các cơ quan này nhằm khắc phục những vi phạm đó, không để ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của khách hàng.
Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung
Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585
Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn