Về kỹ năng của việc tiếp xúc, trao đổi với khách hàng là bị đơn về cơ bản cũng giống với kỹ năng của Luật sư trong việc tiếp xúc, trao đổi với khách hàng là nguyên đơn. Điểm khác biệt là Luật sư khi tiếp xúc với khách hàng là bị đơn là phải tìm ra căn cứ để phản bác lại việc khởi kiện của nguyên đơn không đúng hoặc không có căn cứ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng mình.
Trong vụ án ly hôn, bị đơn thường có yêu cầu Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình trong việc không đồng ý với yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, hoặc nếu Tòa án vẫn cho ly hôn thì không đồng ý với yêu cầu chia tài sản chung, nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Khách hàng là bị đơn luôn có tư duy phản biện lại đối với những yêu cầu được cho là có căn cứ của bị đơn.
Do vậy, khi tiếp xúc với khách hàng là bị đơn, Luật sư cần lắng nghe về quan điểm, lý do họ không đồng ý với yêu cầu của bị đơn là gì? Luật sư cần ghi chép những ý kiến đó, thu thập thêm các chứng cứ khác để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là thiếu căn cứ.
Ngoài việc phản bác các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nếu bị đơn có thêm yêu cầu Tòa án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình từ việc giải quyết tranh chấp thì luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng là bị đơn làm đơn yêu cầu phản tố và tiến hành các thủ tục để yêu cầu phản tố được Tòa án xem xét, chấp nhận theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Ví dụ:
Anh P và chị S được gia đình tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào tháng 6/2013. Đến tháng 12/2016, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, thường xuyên cãi vã. Vì vậy, anh P làm đơn khởi kiện xin ly hôn với chị S. Anh P cho rằng: vợ chồng anh P, chị S không có tài sản chung, nợ chung và con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
TAND huyện X, tỉnh Y đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của anh P theo đúng thẩm quyền. Khi tiếp xúc với chị S, Luật sư được biết là chị S đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh P. Chị có yêu cầu được chia ½ đối với tài sản chung của vợ chồng là số nữ trang được bố mẹ hai bên cho chung vợ chồng trong ngày cưới gồm: dây chuyền, nhẫn, bông tai… Tất cả số nữ trang trên đều do bà V là mẹ chồng của chị S quản lý.
Với thông tin khi tiếp xúc với chị S, Luật sư cần hướng dẫn chị S soạn thảo đơn yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và tiến hành các thủ tục để Tòa án chấp nhận xem xét yêu cầu theo quy định của BLTTDS 2015. Đồng thời, đề nghị Tòa án triệu tập bà V tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung
Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585
Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn