Tranh chấp HN&GĐ gồm nhiều loại tranh chấp khác nhau, với mỗi một vụ án, Tòa án xem xét giải quyết một quan hệ pháp luật tranh chấp chính theo phạm vi khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Như vậy, tùy thuộc vào quan hệ pháp luật tranh chấp và phạm vi yêu cầu giải quyết tranh chấp của đương sự mà Luật sư áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết, sự kiện phục vụ cho mục đích chứng minh cho yêu cầu của khách hàng là có căn cứ.
Thu thập tài liệu, chứng cứ xác định quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình:
Tranh chấp về HN&GĐ được Tòa án thụ lý giải quyết phải là những tranh chấp phát sinh từ một quan hệ pháp luật HN&GĐ. Luật sư cần chú trọng thu thập các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho các nội dung sau:
Thu thập tài liệu, chứng cứ với mục đích chứng minh quan hệ hôn nhân hợp pháp
Trường hợp các bên có đăng ký kết hôn: Hôn nhân hợp pháp được pháp luật xác định bằng sự kiện kết hôn theo pháp luật của một người nam và một người nữ. Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 thì kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật HN&GĐ về điều kiện kết hôn (Điều 8) và đăng ký kết hôn (Điều 9).
Việc kiểm tra các điều kiện kết hôn của một người nam và một người nữ khi làm thủ tục đăng ký kết hôn thuộc thẩm quyền của UBND xã, phường nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn (đối với công dân Việt Nam cư trú ở trong nước) và UBND cấp huyện/quận (đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài). Trên cơ sở hồ sơ đăng ký kết hôn hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện thủ tục theo pháp luật quy định. Việc kết hôn của các bên được ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên ký tên vào Sổ đăng ký kết hôn và được nhận Giấy chứng nhận kết hôn. Như vậy, về chứng cứ là các bên có đăng ký kết hôn, Luật sư có thể thu thập theo cách là đề nghị khách hàng cung cấp Giấy chứng nhận kết hôn (để xuất trình cho Tòa án) hoặc xin trích lục Sổ đăng ký kết hôn tại nơi đăng ký kết hôn (trong trường hợp Giấy chứng nhận kết hôn bị thất lạc). Nếu vì những lý do khác nhau mà Luật sư không thể tự mình thu thập được tài liệu này thì có thể đề xuất Tòa án thu thập chứng cứ.
Trường hợp ngoại lệ, các bên mặc dù không có đăng ký kết hôn nhưng vẫn được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp. Qua từng thời kỳ lập pháp, Nhà nước đã thừa nhận một số trường hợp đặc biệt mặc dù không đáp ứng các quy định của pháp luật về HN&GĐ về điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn… nhưng vẫn được công nhận quan hệ vợ chồng. Luật sư cần phải xem xét trong từng trường hợp cụ thể, các “điều kiện” Nhà nước quy định để công nhận hôn nhân hợp pháp đó là điều kiện gì, từ đó có định hướng thu thập chứng cứ phù hợp. Cụ thể:
– Quan hệ hôn nhân vi phạm chế độ “một vợ, một chồng” vẫn có thể được công nhận là hôn nhân hợp pháp nếu: Các quan hệ hôn nhân ở miền Bắc xác lập trước thời điểm ngày 13/01/1960 (thời điểm Luật HN&GĐ 1959 chưa có hiệu lực pháp luật); quan hệ hôn nhân ở miền Nam xác lập trước ngày 25/3/1977 (ngày Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76-CP hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước, trong đó có Đạo luật số 13 về HN&GĐ); các trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp theo Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của TANDTC hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về HN&GĐ của cán bộ, bộ đội ở miền Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác.
Như vậy, với các trường hợp trên, Luật sư cần thu thập các tình tiết, sự kiện liên quan đến thời điểm chung sống (chung sống như vợ chồng vào thời điểm nào?); địa điểm chung sống của các bên (miền Nam hay miền Bắc); điều kiện thực tế tại thời điểm kết hôn… để áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo hiệu lực không gian và thời gian.
– Trường hợp người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, sau khi quyết định tuyên bố của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì vợ hoặc chồng của người đó có quyền kết hôn với người khác. Nếu người bị tuyên bố là đã chết trở về, Tòa án ra quyết định hủy quyết định tuyên bố chết, mà vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật. Nếu người vợ hoặc người chồng chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục lại.
Đối với trường hợp trên, để chứng minh cho quan hệ hôn nhân sau là hợp pháp thì Luật sư cần phải chứng minh về thời điểm kết hôn là có sau thời điểm Tòa án ra quyết định tuyên bố người chồng hoặc người vợ của họ là đã chết có hiệu lực pháp luật.
– Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn chỉ được coi là có giá trị pháp lý nếu bảo đảm được các điều kiện công nhận là vợ chồng được pháp luật hướng dẫn tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ (2000).
– Trường hợp hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn, nhưng trong một số trường hợp ngoại lệ, nếu xảy ra một số sự kiện pháp lý nhất định, căn cứ vào sự kiện này để xác định việc chuyển hóa quan hệ hôn nhân từ hôn nhân trái pháp luật sang công nhận là hôn nhân hợp pháp. Luật sư cần thu thập chứng cứ để chứng minh cho việc “chuyển hóa” quan hệ hôn nhân từ hôn nhân trái pháp luật (do vi phạm điều kiện kết hôn) sang quan hệ hôn nhân hợp pháp, theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ (2014). Theo đó, khi xem xét, giải quyết yêu cầu có liên quan đến việc hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào yêu cầu của đương sự và điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân quy định tại Điều 8 và Điều 11 của Luật HN&GĐ 2014 để quyết định. Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không có đủ điều kiện kết hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật HN&GĐ 2014 thì Tòa án xử lý như sau:
+ Nếu hai bên kết hôn cùng yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án quyết định công nhận quan hệ hôn nhân đó kể từ thời điểm các bên kết hôn có đủ điều kiện kết hôn.
Ví dụ 1:
Anh A sinh ngày 25/01/1996, chị B sinh ngày 10/01/1995. Ngày 08/01/2015, anh A và chị B đăng ký kết hôn. Ngày 25/9/2016, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Tại phiên họp, anh A và chị B đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, nếu xét thấy đã đủ các điều kiện kết hôn khác thì Tòa án xem xét công nhận quan hệ hôn nhân của anh A và chị B kể từ thời điểm cả anh A và chị B đủ tuổi kết hôn, tức là kể từ ngày 25/01/2016.
Ví dụ 2:
Anh A và chị B đăng ký kết hôn ngày 05/7/2009 và chưa ly hôn. Ngày 10/5/2012, anh A lại kết hôn với chị C. Ngày 12/6/2014, chị B chết. Ngày 15/5/2015, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa anh A và chị C. Tại phiên họp, anh A và chị C đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, nếu xét thấy đã đủ các điều kiện kết hôn khác thì Tòa án xem xét công nhận quan hệ hôn nhân của anh A và chị C kể từ thời điểm chị B chết, tức là ngày 12/6/2014.
Ví dụ 3:
Ngày 27/5/2009, chị A bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Ngày 30/9/2009, chị A kết hôn với anh B. Ngày 12/8/2012, Tòa án quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố chị A mất năng lực hành vi dân sự. Ngày 12/02/2015, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Tại phiên họp, chị A và anh B đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, nếu xét thấy đã đủ các điều kiện kết hôn khác thì Tòa án xem xét công nhận quan hệ hôn nhân của chị A và anh B kể từ thời điểm chị A không còn bị mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
+ Nếu một hoặc hai bên yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc có một bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia không có yêu cầu thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trường hợp có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết, Luật sư cần căn cứ theo quy định tại Điều 12 Luật HN&GĐ 2014 để tư vấn cho khách hàng giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con, về quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến thời điểm hủy việc kết hôn trái pháp luật.
+ Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho ly hôn hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Trường hợp này, Luật sư tư vấn cho khách hàng quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con từ thời điểm kết hôn đến thời điểm ly hôn được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến trước thời điểm đủ điều kiện kết hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật HN&GĐ 2014; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm đủ điều kiện kết hôn đến thời điểm ly hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật HN&GĐ 2014.
+ Trường hợp đã đăng ký kết hôn nhưng tại thời điểm Tòa án giải quyết hai bên vẫn không có đủ các điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật HN&GĐ 2014 thì Luật sư cần tư vấn thực hiện như sau: (i) Nếu có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật; (ii) Nếu một hoặc cả hai bên yêu cầu ly hôn hoặc yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án không chấp nhận yêu cầu của họ và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Việc giải quyết hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật được giải quyết theo quy định tại Điều 12 của Luật HN&GĐ 2014.
Cần lưu ý là khi tư vấn và giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Luật sư phải căn cứ vào quy định của pháp luật HN&GĐ có hiệu lực tại thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân để xác định việc kết hôn có trái pháp luật hay không. Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu xử lý việc kết hôn trái pháp luật được thực hiện theo quy định của Luật HN&GĐ và pháp luật tố tụng dân sự có hiệu lực tại thời điểm giải quyết.
Thu thập tài liệu, chứng cứ xác định quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con
Theo quy định tại khoản 4 Điều 28 BLTTDS 2015, tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về người có yêu cầu khởi kiện. Nếu là người bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn, Luật sư cần giúp khách hàng thu thập chứng cứ để xác định mối quan hệ giữa người bị kiện và mẹ (cha) của đứa trẻ và chứng cứ chứng minh trực tiếp mối quan hệ giữa người bị kiện và đứa trẻ có mối quan hệ huyết thống.
Tài liệu, chứng cứ chứng minh có thể thông qua các tài liệu, chứng cứ gián tiếp như:
Trong thời gian thụ thai đứa trẻ, người đàn ông bị kiện và mẹ đứa trẻ đã yêu thương nhau, hứa hẹn kết hôn nhưng sau đó không kết hôn nữa;
– Trong thời gian thụ thai đứa trẻ, người đàn ông bị kiện và mẹ đứa trẻ đã chung sống như vợ chồng, khi đứa trẻ sinh ra, người đàn ông bị kiện đã yêu thương đứa trẻ như con của mình;
– Trong thời gian có thể thụ thai đứa trẻ, mẹ đứa trẻ đã bị người đàn ông bị kiện cưỡng dâm hoặc hiếp dâm;
– Các giấy tờ hay thư từ do người đàn ông bị kiện viết xác nhận đứa trẻ là con của họ…
Quan hệ cha, mẹ, con cũng có thể được xác định về phương diện xã hội như việc các bên đương sự cư xử với nhau như cha – con (mẹ – con) thông qua việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, gây dựng tương lai cho con hoặc thông qua việc cư xử của người con với cha, mẹ hoặc thông qua dư luận xã hội…
Tuy nhiên, cho dù có xuất trình các tài liệu, chứng cứ trên thì tính thuyết phục cũng không cao, trừ trường hợp người bị kiện thừa nhận. Trong trường hợp việc chứng minh bằng tài liệu, chứng cứ gián tiếp trên không đạt kết quả thì Luật sư thu thập các tài liệu, chứng cứ trực tiếp để chứng minh mối quan hệ giữa người bị kiện và đứa trẻ. Luật sư có thể hướng dẫn khách hàng đưa ra yêu cầu đề nghị Tòa án giám định gen theo quy định của BLTTDS về trưng cầu giám định. Tuy nhiên, một thực tế đang vướng mắc hiện nay là nếu người bị yêu cầu đi giám định gen (là người bị kiện hoặc người thân thích của họ) không tự giác phối hợp cung cấp “mẫu” để đi giám định gen thì việc giám định này sẽ không thực hiện được. Trong trường hợp này, rất khó để Luật sư sử dụng kết quả của chứng cứ chứng minh trực tiếp là kết quả giám định gen. Do đó, Luật sư cần sử dụng triệt để khả năng chứng minh của các tài liệu, chứng cứ gián tiếp như đã phân tích ở phần trên.
Thu thập tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu giải quyết ly hôn:
Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của mình, người vợ hoặc người chồng phải đưa ra các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu xin ly hôn là có căn cứ hợp pháp. Phải xác định rõ việc kết hôn có đáp ứng đủ các điều kiện về hình thức và nội dung của cuộc hôn nhân hợp pháp, không công nhận quan hệ vợ chồng hay hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trường hợp vợ chồng không có đăng ký kết hôn thì phải xác định rõ quan hệ vợ chồng xác lập từ thời gian nào? Tìm hiểu nguyên nhân diễn biến, tình trạng mâu thuẫn, thời điểm vợ chồng cắt đứt quan hệ… Ngoài việc lấy lời khai của vợ chồng thì việc xác định tình trạng hôn nhân thường phải qua phản ánh của những người có quan hệ gần gũi như cha, mẹ, cơ quan quản lý của vợ chồng, tổ dân phố, đoàn thể xã hội mà họ làm việc, sinh sống. Theo khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ 2014, Tòa án sẽ giải quyết ly hôn nếu có căn cứ về việc “vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
Như vậy, Luật sư cần thu thập chứng cứ để chứng minh cho hai mệnh đề chính sau: Thứ nhất, có việc người vợ hoặc người chồng (là bị đơn) có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng; Thứ hai, với những hành vi như vậy của người vợ (chồng) đã làm cho hôn nhân của họ lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ ly hôn của Luật HN&GĐ 2014 có điểm bổ sung so với Luật HN&GĐ 2000 ở chỗ đã chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến việc chấm dứt hôn nhân phải do chính hành vi có lỗi của một bên vợ hoặc chồng (bên bị kiện) và không thể là do tác động từ bên ngoài hoặc của người khác. Xét về ý thức chủ quan, họ đã cố ý lựa chọn cho mình cách xử sự, cách hành động không đúng với vai trò, trách nhiệm của một người chồng hoặc người vợ và do đó, đã làm tổn thương nghiêm trọng đến đời sống tình cảm của vợ chồng.
Để chứng minh yếu tố lỗi của một bên dẫn đến yêu cầu chấm dứt hôn nhân, Luật sư phải thu thập các tài liệu, chứng cứ về những hành vi bạo lực gia đình (nếu có) hoặc những vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ (chồng) và mối quan hệ nhân – quả giữa những hành vi vi phạm đó với việc duy trì đời sống chung của vợ chồng. Vì vậy, việc chấm dứt hôn nhân là cách tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích về nhân thân, về tài sản của vợ hoặc chồng.
Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những hành vi có lỗi của một bên vợ hoặc chồng, Luật sư có thể thu thập qua hình thức thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận lời khai của khách hàng, lời khai của những người làm chứng là các thành viên khác trong gia đình, người hàng xóm, của Tổ trưởng khu phố, của đại diện hội phụ nữ, bệnh án tại cơ sở y tế… theo quy định của BLTTDS.
Thu thập tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu giải quyết việc nuôi con sau ly hôn:
Về quan hệ cha, mẹ, con, cần hỏi rõ số con, tên tuổi, ngày tháng năm sinh của con, ai đang nuôi dưỡng, điều kiện về kinh tế và chỗ ở của hai bên vợ chồng.
Việc tranh chấp nuôi con sau ly hôn thường xảy ra giữa bên vợ hoặc bên chồng trong vụ án ly hôn, đôi khi yêu cầu này được đưa ra là để “đối kháng” lại với yêu cầu xin ly hôn của người kia, để tác động đến tình cảm, đến ý chí muốn ly hôn của người kia. Luật sư muốn chứng minh cho yêu cầu nuôi con của khách hàng mình là chính đáng thì phải thu thập được những tài liệu, chứng cứ thuyết phục về việc bảo đảm “quyền lợi về mọi mặt của con” khi giao con cho mẹ hoặc cha nuôi.
Quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần của con cần phải được thể hiện cụ thể qua các tài liệu, chứng cứ như: Thu nhập ổn định của người nhận nuôi con; chỗ ở ổn định (ví dụ như Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở của mình hoặc của ông, bà khi bố (mẹ) đưa con về ở cùng…); tính chất công việc (để có thời gian đưa đón, chăm sóc con hàng ngày…).
Ngoài ra, Luật sư cần thu thập các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho nguyện vọng nuôi con của khách hàng mình là chính đáng, nếu thuộc các trường hợp sau:
– Con từ đủ 07 (bảy) tuổi trở lên thì phải có ý kiến thể hiện nguyện vọng của con muốn sống cùng với bố hoặc mẹ sau ly hôn. Đây là một tài liệu, chứng cứ bắt buộc phải thu thập để xác định việc giao con cho một bên nuôi con sau ly hôn. Nếu con muốn ở với bố hoặc mẹ (mà người này là khách hàng của mình), Luật sư cần đánh giá đây là tình tiết không cần phải chứng minh trong việc bảo vệ quyền được nuôi con của khách hàng.
– Con dưới 36 tháng, về nguyên tắc được giao cho người mẹ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, nếu như người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Trong trường hợp Luật sư bảo vệ quyền được nuôi con của người bố đối với con dưới 36 tháng tuổi thì phải thu thập các tài liệu, chứng cứ để phản bác lại quyền được nuôi con của người mẹ, nếu giao con cho người mẹ nuôi sẽ không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho con. Các tài liệu, chứng cứ phản bác này phải thực sự thuyết phục, bởi vì, về nguyên tắc nuôi con dưới 36 tháng giao cho người mẹ, trừ trường hợp người mẹ cũng từ bỏ quyền được nuôi con sau ly hôn của mình.
Thu thập tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn:
Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của người không trực tiếp nuôi con sau ly hôn là một nghĩa vụ luật định. Do vậy, nếu một bên nuôi con yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con thì không phải chứng minh về việc người đó có phải cấp dưỡng nuôi con hay không? Vấn đề cần phải chứng minh là mức yêu cầu cấp dưỡng có phù hợp giữa chi phí phải chi trả cho sinh hoạt, học tập của đứa trẻ với thu nhập, hoàn cảnh sống của người có nghĩa vụ cấp dưỡng hay không.
Để xác định mức cấp dưỡng mà khách hàng của mình đưa ra là phù hợp với thực tế thì Luật sư cần thu thập các tài liệu, chứng cứ về chi phí cho việc học tập ở trường của con (như thông báo đóng tiền học hàng tháng), xác nhận của cá nhân, tổ chức khác về khoản tiền phải chi trả khác cho con (nếu có)… Ngoài ra, cần thu thập thêm thông tin về nguồn thu nhập, hoàn cảnh sống của người cấp dưỡng để khẳng định rằng họ hoàn toàn có khả năng đáp ứng yêu cầu về mức cấp dưỡng đã đưa ra.
Lưu ý, đối với yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực, Luật sư cần thu thập thêm các tài liệu, chứng cứ thể hiện sự chưa phù hợp giữa tình hình thực tế và mức cấp dưỡng đã ấn định trong bản án, quyết định. Việc thay đổi về mức cấp dưỡng trước đây là cần thiết, bởi nó phù hợp với sự biến động về giá cả thị trường, về nhu cầu tăng lên của con, về điều kiện vật chất đã tốt hơn của người cấp dưỡng (ví dụ, thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng đã tăng lên…).
Thu thập tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu chia tài sản sau ly hôn:
Thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh tính có căn cứ đối với yêu cầu chia tài sản trong vụ án ly hôn của khách hàng là một hoạt động hết sức quan trọng của Luật sư trước khi tham gia phiên tòa. Luật sư cần phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định đúng tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng, tài sản nào không phải là tài sản chung của vợ chồng, công sức đóng góp của mỗi bên vào khối tài sản chung…
Thu thập tài liệu, chứng cứ xác định tài sản chung của vợ chồng:
Thứ nhất, thu thập chứng cứ để xác định về chế độ tài sản vợ chồng được xác lập.
Luật HN&GĐ 2014 và Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ đã có những quy định mang tính chất đột phá về chế độ tài sản của vợ chồng là cho phép vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Để xác định được tài sản chung của vợ chồng, trước hết Luật sư phải xác định chế độ tài sản của vợ chồng trong vụ án này là chế độ tài sản theo thỏa thuận hay theo luật định? Nếu vợ chồng không có thỏa thuận xác lập chế độ tài sản theo đúng quy định của Luật HN&GĐ 2014 hoặc thỏa thuận xác lập chế độ tài sản bị vô hiệu hoặc việc thỏa thuận chưa đầy đủ, chưa rõ ràng thì áp dụng chế độ tài sản theo luật định.
Nếu vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản thì trước tiên, Luật sư phải thu thập văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng (yêu cầu khách hàng cung cấp), từ đó, xem xét về tính có hiệu lực của văn bản thỏa thuận này. Trường hợp văn bản thỏa thuận này không thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo quy định tại Điều 50 Luật HN&GĐ 2014 thì khi giải quyết yêu cầu chia tài sản khi ly hôn phải ưu tiên xác định theo nội dung của văn bản thỏa thuận. Nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì khi giải quyết tài sản vợ chồng khi ly hôn áp dụng quy định chung (đối với chế độ tài sản luật định).
Thứ hai, xác định cụ thể tài sản chung của vợ chồng theo luật định.
Trong trường hợp, các bên không có thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng thì theo quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ 2014, tài sản chung của vợ chồng được hình thành rất đa dạng, sinh động. Tựu trung lại, tài sản chung của vợ chồng hình thành từ các nguồn sau:
– Tài sản chung hình thành từ kết quả của lao động. Những tài sản có thể do vợ và chồng cùng trực tiếp lao động hoặc do một trong hai bên trực tiếp lao động để làm ra sản phẩm, tạo thu nhập cho gia đình; hoặc tài sản chung có thể hình thành qua việc được trả công lao động, thuê người khác làm việc, do tổ chức sản xuất, kinh doanh mà có…
– Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung. Đây là trường hợp vợ chồng cùng được hưởng thừa kế theo di chúc của người để lại di sản. Trong di chúc, phải thể hiện rõ để lại tài sản cho cả vợ và chồng. Nếu các bên không thừa nhận đây là tài sản được thừa kế chung thì Luật sư phải xem xét kỹ nội dung di chúc.
– Tài sản chung được hình thành từ việc được tặng cho chung. Vợ chồng có thể được tặng cho tài sản thông qua hợp đồng tặng cho bằng văn bản và cũng có thể là tặng cho tài sản bằng lời nói của người có tài sản. Trong nhiều trường hợp, việc tặng cho không bằng văn bản mà chỉ bằng hành vi trên thực tế như là chuyển giao vật trên thực tế, bằng lời nói trước sự chứng kiến của người khác… Do vậy, khi vợ chồng ly hôn, một bên khai là tài sản chung do cha, mẹ cho, một bên khai không phải là tài sản chung của vợ chồng. Cha, mẹ cũng đứng về phía người con của mình, không thừa nhận việc cho chung cả hai vợ chồng. Trong trường hợp này, việc chứng minh là rất khó khăn cho người có yêu cầu. Luật sư cần phải thu thập tài liệu, chứng cứ đầy đủ để khẳng định về ý thức của bố mẹ là tặng cho chung (ví dụ, vợ chồng đã xây nhà trên khuôn viên riêng, vợ chồng đã quản lý, sử dụng trong nhiều năm hoặc đã kê khai, được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, cha, mẹ đã biết nhưng không phản đối hoặc đồng ý để cho con đi kê khai, xin cấp giấy…).
– Những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Những thu nhập hợp pháp khác ngoài những trường hợp trên được xác định là tài sản chung của vợ chồng có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo các quy định của pháp luật.
– Việc nhập tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung: Trong trường hợp này, Luật sư cần chú ý thu thập chứng cứ chứng minh một bên có tài sản riêng có tự nguyện hay không khi nhập vào khối tài sản chung? Ý thức chủ quan của người có tài sản riêng là gì? Họ có ý kiến phản đối gì khi biết rằng tài sản riêng của họ đã được đứng tên của hai vợ chồng (đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu). Luật sư cần thu thập các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho ý thức chủ quan của người có tài sản riêng, để khẳng định tài sản đó là tài sản chung được mang ra chia khi ly hôn (trong đó có quyền lợi của khách hàng của mình).
Về tài sản là quyền sử dụng đất: Tại khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 quy định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Trong khi một bên cho rằng quyền sử dụng đất có nguồn gốc là của riêng họ. Tuy nhiên, sau khi hợp thức hóa giấy tờ, cơ quan làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ghi tên của hộ gia đình hoặc của cả hai vợ chồng. Do vậy, Luật sư phải thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ đất đó có cấp cho hộ gia đình, cấp cho cả hai vợ chồng vào thời điểm nào?
Thu thập tài liệu, chứng cứ là tài sản riêng:
Để chứng minh tài sản nào là tài sản riêng của khách hàng và tài sản này sẽ không chia khi giải quyết ly hôn, Luật sư phải thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến nguồn gốc của tài sản. Theo quy định tại Điều 43 Luật HN&GĐ 2014, tài sản riêng của vợ, chồng có từ nhiều nguồn khác nhau. Để có thông tin cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ, Luật sư cần phải trao đổi với khách hàng về thời điểm phát sinh quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của khách hàng với tài sản (có từ trước khi kết hôn), về tài liệu, chứng cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản (văn bản tặng cho riêng, thừa kế riêng…).
Thu thập tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ chia tài sản khi ly hôn:
Khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ 2014 đã quy định rõ về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn là chia đôi, tuy nhiên có tính đến các yếu tố:
– Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
– Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
– Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
– Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Như vậy, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng mà mình bảo vệ và mối tương quan về công sức tạo dựng, duy trì, phát triển khối tài sản chung của khách hàng của mình, tùy thuộc vào yếu tố lỗi của khách hàng trong việc ly hôn, Luật sư cần thu thập những tài liệu, chứng cứ có lợi nhất cho khách hàng của mình. Ví dụ, khách hàng là phụ nữ không có công ăn việc làm, ở nhà nội trợ và chăm sóc con nhỏ thì Luật sư cần thu thập thêm tài liệu, chứng cứ về việc người chồng đã vi phạm nghĩa vụ thương yêu, chung thủy với người vợ… Tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc vi phạm nghĩa vụ của người chồng trong trường hợp này là có lợi cho khách hàng để yêu cầu được bảo đảm quyền lợi khi chia tài sản ly hôn.
Thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định phần được chia tài sản của vợ, chồng:
Khi áp dụng các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho các mục đích nêu trên, Luật sư cần lưu ý, việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ có thể thông qua cơ quan quản lý nhà đất, ngân hàng… để xác định nguồn gốc tài sản hiện có, do tạo lập hay được thừa kế, được tặng cho. Việc định giá tài sản trong các vụ án ly hôn cũng được tiến hành như việc định giá tài sản trong các vụ việc tranh chấp khác theo quy định của BLTTDS 2015. Nếu có công sức đóng góp của vợ chồng vào khối tài sản chung của gia đình thì Tòa án ngoài việc định giá tài sản chung của vợ chồng còn phải định giá tài sản của gia đình làm cơ sở để giải quyết, trích chia công sức của vợ chồng đã đóng góp trong khối tài sản chung đó của gia đình, có thể là tài sản hoặc hoa lợi, lợi tức từ việc sản xuất, kinh doanh.
Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung
Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585
Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn