[TƯ VẤN LHS – TỘI PHẠM CHỨC VỤ] Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố

Theo quy định của pháp luật cũng như các loại vụ án hình sự khác, thời điểm Luật sư được quyền tiếp cận toàn bộ hồ sơ vụ án để nghiên cứu, sao chụp là sau khi kết thúc điều tra. Trong quá trình điều tra, Luật sư chỉ được quyền yêu cầu CQĐT cho xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của Luật sư và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà Luật sư nhận bào chữa. Điều đó có nghĩa rằng hoạt động nghiên cứu hồ sơ của Luật sư chỉ có thể được thực hiện một cách toàn diện, đầy đủ sau khi kết thúc điều tra. Trên thực tiễn thường là sau khi hồ sơ vụ án đã được chuyển sang VKS, ở giai đoạn truy tố.

Hồ sơ vụ án tội phạm về chức vụ thường có tính phức tạp hơn các vụ án hình sự như cướp của, giết người, cố ý gây thương tích… Các vụ án thường có nhiều bị can, bị cáo bị điều tra, truy tố, xét xử về một tội danh hoặc nhiều tội danh khác nhau, có liên quan đến nhau. Ví dụ: một vụ án về hành vi nhận hối lộ thường đi cùng với hành vi đưa hối lộ, thậm chí cả hành vi làm môi giới hối lộ. Các vụ án về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn thường đi cùng với các tội danh khác liên quan đến hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

Ví dụ:

Vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc, rửa tiền, mua bán hóa đơn… do các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh PT điều tra, truy tố, xét xử năm 2018 xuất phát từ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của một số cán bộ cao cấp trong ngành Công an. Do tính đặc thù như vậy, hồ sơ các vụ án liên quan đến tội phạm về chức vụ thường rất phức tạp, cả về mặt tố tụng và nội dung, số lượng bút lục nhiều. Hồ sơ vụ án này có đến trên một triệu bút lục; hồ sơ vụ án Tham ô tài sản, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, cố ý làm trái, vi phạm quy định về cho vay xảy ra tại Ngân hàng Đại Dương (Oceanbank) có đến trên 120 ngàn bút lục. Từ những đặc thù đó đặt ra yêu cầu đối với Luật sư cần phải xây dựng cho mình những kỹ năng riêng để có thể nghiên cứu, khai thác hồ sơ hiệu quả mà không tốn quá nhiều thời gian, công sức.

Đối với những vụ án tội phạm về chức vụ có nhiều bị can, bị cáo, liên quan đến nhiều tội danh, số lượng bút lục trong hồ sơ vụ án nhiều và không phải tài liệu gì cũng liên quan đến người mà Luật sư nhận bào chữa, Luật sư cần phải xác định bị can, bị cáo mà mình bảo vệ là ai, sự liên quan của bị can, bị cáo đó đối với các đối tượng khác trong vụ án thế nào để xác định phạm vi hồ sơ cần nghiên cứu, từ đó mới đưa ra quyết định lựa chọn hồ sơ để sao chụp, nghiên cứu phục vụ cho việc bào chữa. Trong quá trình tác nghiệp, mỗi Luật sư sẽ có những cách xử lý riêng liên quan đến việc lựa chọn hồ sơ để sao chụp, nghiên cứu. Ví dụ, trước khi nghiên cứu, sao chụp hồ sơ, Luật sư có thể đọc kỹ cáo trạng, kết luận điều tra, danh mục hồ sơ để có cái nhìn tổng thể về vụ án, vị trí, vai trò của bị can, bị cáo mà mình bảo vệ, sự liên quan của họ đối với các bị can, bị cáo, nhân chứng, người liên quan khác… sau đó mới quyết định lựa chọn tài liệu nào trong hồ sơ để sao chụp, nghiên cứu. Đối với các vụ án không quá lớn về quy mô, phức tạp về nội dung, số lượng bị can, bị cáo, hồ sơ không nhiều, Luật sư bảo vệ cho bị can, bị cáo đầu vụ liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo khác thì phương án tốt nhất là sao chụp toàn bộ hồ sơ. Sau khi đã sao chụp các hồ sơ liên quan đến việc bảo vệ khách hàng, hồ sơ cần được sắp xếp bố trí khoa học để thuận tiện cho việc nghiên cứu, khai thác, sử dụng trong quá trình tác nghiệp.

Hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án của Luật sư trong các vụ án tội phạm về chức vụ cũng cần tuân theo những kỹ năng cơ bản của việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự. Yêu cầu chung đối với việc nghiên cứu hồ sơ phải đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện và theo một thứ tự hợp lý. Mục đích nghiên cứu hồ sơ vụ án nhằm giúp Luật sư hiểu rõ diễn biến hành vi phạm tội, hiểu được bản chất của vụ án, xác định sự thật khách quan của vụ án, việc điều tra, truy tố có đúng quy định của pháp luật hay không, quá trình thu thập chứng cứ có đúng thủ tục tố tụng không, tìm những tình tiết, chứng cứ có lợi cho khách hàng, triệt tiêu các chứng cứ bất lợi do vi phạm tố tụng trong quá trình thu thập.

Hoạt động nghiên cứu hồ sơ thường bắt đầu từ việc nghiên cứu bản cáo trạng, kết luận điều tra rồi đến các tài liệu khác. Qua nghiên cứu bản cáo trạng, kết luận điều tra, Luật sư sẽ có cái nhìn toàn diện về diễn biến vụ án, các căn cứ buộc tội bị can, bị cáo. Theo quy định của pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thực tế thì nội dung bản cáo trạng và kết luận điều tra thường thiên về các căn cứ buộc tội. Do đó, để có thể bảo vệ quyền lợi chính đáng của khách hàng một cách hiệu quả, đặc biệt là trong các vụ án mà Luật sư cho rằng có dấu hiệu oan sai thì cần nghiên cứu kỹ các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án một cách toàn diện, đầy đủ. Trong thực tiễn, rất nhiều vụ án oan sai mà Luật sư giúp được khách hàng thì chứng cứ chứng minh oan sai không nằm trong bản cáo trạng, kết luận điều tra mà nằm trong các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Ví dụ:

Trong vụ án Công ty T, theo Bản cáo trạng liên quan đến rất nhiều bị cáo khác bị truy tố về các tội phạm liên quan đến chức vụ, bị cáo Nguyễn Xuân S nguyên là nhân viên một công ty kinh doanh bị truy tố về tội “Buôn lậu” theo khoản 4 Điều 188 BLHS với mức án từ 12 đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ hồ sơ, Luật sư nhận thấy việc truy tố bị cáo Nguyễn Xuân S về tội “Buôn lậu” là không có căn cứ và đề nghị Tòa án tuyên bị cáo S vô tội. Sau quá trình tranh luận tại phiên tòa, TAND tỉnh L.C đã tuyên bị cáo S phạm tội “Không tố giác tội phạm” với mức án 1 năm 17 ngày tù, đúng bằng thời gian tạm giam và thả ngay tại phiên tòa.

Chủ thể trong nhóm các tội phạm về chức vụ thường là những người có chức vụ, quyền hạn, thuộc nhóm chủ thể đặc biệt. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư cần kiểm tra các chứng cứ liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của bị can, bị cáo. Có những vụ án, nếu không chứng minh được bị can, bị cáo là người có chức vụ, quyền hạn thì cần phải xem xét lại tội danh đã truy tố.

Ví dụ :

Trong một vụ án xảy ra tại Công ty bia N.D, bị cáo S bị truy tố ở tội tham ô tài sản. Tuy nhiên, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư thấy rằng các chứng cứ trong hồ sơ chứng minh rằng bị cáo S không phải là người có chức vụ, quyền hạn và không có trách nhiệm, thẩm quyền quản lý đối với số tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt. Sau đó, các cơ quan tiến hành tố tụng đã phải chuyển tội danh bị cáo S từ “tham ô tài sản” sang tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, mức án đối với bị cáo cũng được giảm nhiều.

Do các vụ án có tội phạm về chức vụ thường thu hút sự quan tâm của công luận, bị can, bị cáo nguyên là những người có chức vụ, quyền hạn, có nhiều mối quan hệ xã hội nên các cơ quan tiến hành tố tụng thường rất thận trọng về thủ tục tố tụng. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là sẽ không có các sai phạm về tố tụng, thậm chí là các vi phạm nghiêm trọng. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần kiểm tra về thủ tục tố tụng để phát hiện các vi phạm tố tụng, đặc biệt là các vi phạm nghiêm trọng tố tụng có thể làm thay đổi bản chất vụ án.

Ví dụ :

Trong vụ án xảy ra tại công ty bia N.D, TAND tỉnh N. Đ đã xét xử sơ thẩm và tuyên bị cáo Trần Văn S phạm tội “Tham ô tài sản” với mức án 20 năm tù. Bị cáo S kháng cáo lên Tòa phúc thẩm tối cao tại Hà Nội. Khi Luật sư tham gia, nghiên cứu hồ sơ nhận thấy bên cạnh rất nhiều điểm bất hợp lý về nội dung, CQĐT đã vi phạm nghiêm trọng tố tụng là không mời Luật sư tham gia trong quá trình điều tra mặc dù hành vi của bị cáo bị truy tố ở tội danh và khung hình phạt có mức hình phạt cao nhất là tử hình. Cùng với những bất hợp lý về mặt nội dung và vi phạm nghiêm trọng tố tụng như trên, Tòa phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra và xét xử lại. Trong quá trình điều tra, xét xử lại, bị cáo S đã được chuyển tội danh từ tội “Tham ô tài sản” sang “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với mức án 15 năm tù.

Do việc chứng minh hành vi phạm tội trong các tội phạm về chức vụ thường phức tạp hơn các vụ án hình sự đơn thuần khác như cướp của, giết người vì thường liên quan đến các chính sách pháp luật, cơ chế quản lý kinh tế, phạm vi thẩm quyền… nên đòi hỏi Luật sư khi tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án, bên cạnh kiến thức về pháp luật cũng cần có những kiến thức chuyên môn trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, sự hiểu biết xã hội sâu rộng.

Ví dụ:

Trong một vụ án xảy ra tại tỉnh Q.B, bị can Đ bị truy tố về tội tham ô tài sản. Tuy nhiên, một trong các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can là những tờ phiếu chi của doanh nghiệp chi tiền cho bị can Đ. Khi nghiên cứu các tờ phiếu chi này, Luật sư nhận thấy các tờ phiếu chi này chỉ có chữ ký của thủ quỹ, mà không hề có chữ ký của giám đốc, cũng không được đóng dấu của doanh nghiệp. Về nguyên tắc kế toán, tờ phiếu chi này không thể coi là chứng từ hợp lệ của doanh nghiệp chi cho bị can mà chỉ có thể chứng minh bị can có nhận tiền từ cá nhân thủ quỹ (quan hệ cá nhân), và bị can cũng khai như vậy. Vậy thì không thể căn cứ vào các tờ phiếu chi đó để kết luận số tiền trên các tờ phiếu chi đó là của doanh nghiệp và bị can Đ đã nhận tiền của doanh nghiệp. Cùng với rất nhiều chứng cứ khác trong hồ sơ, Luật sư đã viết bản kiến nghị gửi tới các cơ quan tiến hành tố tụng. Sau khi xem xét chứng cứ một cách toàn diện, khách quan, VKS nhân dân tỉnh Q.B đã quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can Đ.

Trong nhóm tội phạm về chức vụ, các yếu tố liên quan đến “hậu quả, số tiền hưởng lợi, chiếm đoạt” thường có ý nghĩa quan trọng trong việc định khung hình phạt. Do đó, khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần chú ý kiểm tra kỹ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc chứng minh về hậu quả, số tiền hưởng lợi, chiếm đoạt. Ví dụ, trong vụ án đưa và nhận hối lộ, bị cáo bị truy tố, xét xử ở khoản 4 Điều 354 BLHS vì số tiền nhận hối lộ trên 1,1 tỷ đồng. Sau khi Luật sư đưa ra căn cứ bóc tách, bác bỏ một số tài liệu, chứng cứ liên quan đến một số lần nhận tiền của bị cáo không có giá trị pháp lý, Tòa án đã chấp nhận, dẫn đến bị cáo được giảm khung hình phạt.

Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung

Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585

Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn

Bài viết liên quan