[TƯ VẤN LUẬT HÌNH SỰ] Kỹ năng sử dụng chứng cứ là dấu vết hình sự

Kỹ năng sử dụng chứng cứ là dấu vết hình sự là một trong những kỹ năng quan trọng đối với Luật sư, qua đó Luật sư sẽ lựa chọn chứng cứ chứng minh trong các chứng cứ, dấu vết, tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án (có thể do CQĐT thu thập, cũng có thể do Luật sư thu thập và cung cấp cho CQĐT). Luật sư phải lựa chọn sử dụng những chứng cứ là dấu vết hình sự bảo đảm tính hợp pháp, khách quan, có độ tin cậy cao, liên quan đến vụ án và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án hình sự đang giải quyết. Qua đó, khi đã lựa chọn được chứng cứ là dấu vết hình sự để chứng minh, Luật sư căn cứ vào đó, đưa ra những nhận định, kết luận, đề xuất của mình về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án.

Nguyên tắc sử dụng chứng cứ là dấu vết hình sự 

Tùy vào tư cách tham gia tố tụng của Luật sư trong vụ án hình sự, các dấu vết hình sự được Luật sư lựa chọn, sử dụng làm chứng cứ chứng minh để bào chữa cho người bị buộc tội hay bảo vệ cho khách hàng của mình là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, tuy nhiên phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhấtLuật sư chỉ sử dụng chứng cứ là dấu vết hình sự nếu các dấu vết này có lợi, có giá trị chứng minh theo phương án bào chữa vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS hoặc chuyển tội danh khác có khung hình phạt nhẹ hơn cho khách hàng của mình.

Ví dụ :

Cơ quan tiến hành tố tụng huyện Y, tỉnh BG đã khởi tố, điều tra, truy tố bị can Vi Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015. Cáo trạng của VKSND huyện Y xác định: Vào hồi 20h30’ ngày 24/5/2018, Vi Văn H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 24K 246.xx lưu thông trên quốc lộ 1A, khi qua ngã tư thuộc địa phận xã X, huyện Y, tỉnh BG do không làm chủ tốc độ và thiếu chú ý quan sát đã đâm va vào phía sau của xe mô tô biển kiểm soát 98C 135.xx do anh Trần Văn M điều khiển đi cùng chiều theo hướng Bắc Giang – Lạng Sơn. Bánh trước xe mô tô biển kiểm soát 24K 246.xx va chạm vào phía sau xe mô tô biển kiểm soát 98C 135.xx làm anh Trần Văn M mất lái, ngã xuống đường, đồng thời xe mô tô biển kiểm soát 24K 246.xx chèn qua người anh Trần Văn M gây chấn thương sọ não dẫn đến hậu quả anh Trần Văn M tử vong.

Căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015, Luật sư bào chữa cho bị can Vi Văn H đã đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y cho tiếp cận, xem xét chứng cứ hiện vật là 02 chiếc xe mô tô của bị can Vi Văn H và bị hại Trần Văn M. Qua quan sát, xem xét trực tiếp bằng phương pháp trực quan các dấu vết trên 02 phương tiện tham gia giao thông này Luật sư sẽ có những nhận định, phân tính, đánh giá chính xác về cơ chế va chạm của 02 phương tiện, làm căn cứ, cơ sở cho định hướng bào chữa cho bị can. Quan sát xe mô tô biển kiểm soát 24K 246.xx thấy vành bánh trước của xe bị hư hỏng nặng, bị móp méo gập sâu vào phía tâm vành, săm và lốp bánh trước xe đều bung ra, có vết rách nham nhở tỳ sâu thủng xuyên qua. Xung quanh điểm hư hỏng của vành xe có nhiều vết sẫm màu bám dính dạng dầu. Quan sát xe mô tô biển kiểm soát 98C 135.xx thấy toàn bộ các vị trí phía sau xe như vành, săm, lốp sau, miếng nhựa cứng chắn bùn, đèn hậu, bô xe không bị hư hỏng do ngoại lực tác động, không thấy có dấu vết va chạm. Quan sát phần thân xe mô tô biển kiểm soát 98C 135.xx thấy có nhiều dấu vết va chạm như vỡ lốc máy phía trái xe, chảy hết dầu máy, gãy cần điều khiển số xe, vỡ 01 phần yếm xe phía trái xe…

Từ những phát hiện qua quan sát trực quan như trên, Luật sư bào chữa cho bị can Vi Văn H có thể sử dụng những dấu vết va chạm đó để lập luận, soạn thảo văn bản kiến nghị yêu cầu TAND huyện Y trả hồ sơ cho VKSND huyện Y điều tra bổ sung, làm rõ cơ chế va chạm giữa 02 phương tiện giao thông. Luật sư đã có đủ căn cứ chứng minh cơ chế va chạm do CQĐT xác định “Bánh trước xe mô tô biển kiểm soát 24K 246.xx va chạm vào phía sau xe mô tô biển kiểm soát 98C

135.xx làm anh Trần Văn M mất lái, ngã xuống đường” là không đúng thực tế. Trong vụ án này, vị trí va chạm của 02 xe mô tô theo chiều vuông góc nhau, 02 xe mô tô di chuyển theo chiều vuông góc nhau (bánh trước của xe mô tô biển kiểm soát 24K 246.xx va chạm vào vị trí giữa xe mô tô biển kiểm soát 98C 135.xx) mà không va chạm theo chiều song song hoặc đâm va từ phía sau như kết luật điều tra đã xác định thiếu chính xác.

Thứ hai, Luật sư không sử dụng chứng cứ là dấu vết hình sự nếu các dấu vết này gây bất lợi cho khách hàng của mình là người bị buộc tội. Trong mọi trường hợp Luật sư không nên đưa ra đánh giá và không sử dụng các dấu vết đó. Nếu tại phiên tòa chủ thể của bên đối trọng như Kiểm sát viên, Luật sư đối tụng đưa ra các dấu vết này và sử dụng chúng để chứng minh về các tình tiết gây bất lợi cho khách hàng của mình thì Luật sư cần phải tìm ra các căn cứ về tính không hợp pháp, tính không khách quan – không phù hợp hoặc có mâu thuẫn giữa dấu vết đó với các chứng cứ, tài liệu khác trong vụ án từ đó đưa ra các lập luận thuyết phục để bác bỏ và đề nghị HĐXX không chấp nhận dấu vết đó là chứng cứ buộc tội cho khách hàng của mình.

Ví dụ :

Trong phần tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên cho rằng khoảng cách từ vị trí nổ của lựu đạn trên hè đến 02 giường ở trong nhà mà người nhà của nạn nhân nằm ngủ chỉ là 15m và 16m. Theo tính năng thì lựu đạn có khả năng sát thương trong vòng bán kính 30m, còn hậu quả không ai bị thương vong là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo… và đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo về tội “giết người” chưa đạt. Trong trường hợp này, Luật sư cần đưa ra các lập luận để bác bỏ quan điểm buộc tội của Kiểm sát viên. Đúng là theo tính năng thì lựu đạn có khả năng sát thương trong vòng bán kính 30m nhưng với điều kiện là địa hình không có chướng ngại vật, còn nếu có chướng ngại vật thì lựu đạn không thể phát huy tác dụng vì nó sát thương bằng mảnh vỏ lựu đạn. Trong vụ án án này bị cáo không ném lựu đạn vào trong nhà khi mọi người trong gia đình nạn nhân đã đi ngủ mà ném lựu đạn vào bên ngoài nhà có tường đất dày và cách cửa bằng gỗ đều đã đóng nên khi lựu đạn nổ sẽ không thể gây thương vong cho bất kỳ ai đang ở trong nhà. Vì vậy, hành vi của bị cáo không cấu thành tội “giết người” mà chỉ cấu thành tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 304 BLHS năm 2015.

Thứ ba, Luật sư khi tham gia tố tụng với tư cách bảo vệ quyền lợi cho người bị hại cần phải phân tích, đánh giá và sử dụng các dấu vết hình sự thu được tại hiện trường để củng cố, đồng tình với quan điểm, lập luận của Kiểm sát viên buộc tội bị can, bị cáo, đồng thời phải đưa ra lập luận thuyết phục HĐXX nhằm bác bỏ quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo về các chứng cứ, dấu vết này.

Tóm lại, biết được thông tin về chứng cứ, thu thập được chứng cứ là dấu vết hình sự có liên quan đến vụ án do Luật sư đang đảm nhận giải quyết để bào chữa cho người bị buộc tội hay để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại hay đương sự khác đã khó, việc thu giữ chứng cứ thế nào, giao nộp khi nào, giao nộp cho cơ quan nào, sử dụng chứng cứ đó ở thời điểm nào trong các giai đoạn tố tụng lại còn khó hơn, đòi hỏi Luật sư phải nắm vững các quy định của BLTTHS, hiểu các nguyên tắc làm việc của cơ quan tiến hành tố tụng, có kinh nghiệm vận dụng khôn khéo và linh hoạt nguồn chứng cứ là dấu vết hình sự để đạt được mục tiêu bào chữa, bảo vệ cho khách hàng của mình hiệu quả cao nhất theo đúng các quy định của pháp luật.

Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung

Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585

Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn

Bài viết liên quan