[TƯ VẤN LUẬT HÌNH SỰ] Nghiên cứu hồ sơ ( phần 1 )

Nghiên cứu hồ sơ là một trong những công việc quan trọng không thể thiếu được của Luật sư khi tham gia tố tụng. Kết quả nghiên cứu hồ sơ là cơ sở để Luật sư xác định những vấn đề cần trao đổi, đề xuất với cơ quan tiến hành tố tụng cũng như chuẩn bị kế hoạch xét hỏi, xác định phương án bào chữa cho bị cáo, bảo vệ quyền lợi cho đương sự.

Nghiên cứu hồ sơ

Khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần phải kiểm tra thủ tục tố tụng, xác định tính hợp pháp, tính có căn cứ của các biện pháp và thủ tục tố tụng do Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện như:

Đối với các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt, khám xét, kê biên, thu giữ tài liệu, đồ vật, công cụ phương tiện phạm tội, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn… cần chú ý sự phù hợp về thời gian, thẩm quyền người ký các quyết định.

Đối với các quyết định và biện pháp phải có sự phê chuẩn của VKS như:

–  Gia hạn tạm giữ

–  Bắt tạm giam

–  Gia hạn tạm giam

 – Khởi tố bị can

–  Gia hạn thời hạn điều tra

Đối với vụ án xâm phạm tính mạng phải xem có kết luận giám định về nguyên nhân chết người không.

Đối với vụ án xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người phải xem có kết luận giám định về tỷ lệ thương tật, nếu vụ án được khởi tố ở khoản 1 của điều luật như: 

–  Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

–  Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

–  Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

 – Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

–  Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính

 – Tội hiếp dâm

–  Tội cưỡng dâm

–  Tội hành hạ người khác

–  Tội vu khống

Phải có yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Trường hợp kiểm tra thấy thiếu các tài liệu trên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, theo đó tài liệu vi phạm tố tụng không có giá trị chứng minh.

Nghiên cứu hồ sơ vụ án các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

Luật sư chú ý các loại tài liệu điển hình sau:

Thứ nhất, nhóm tài liệu về khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể…

Trong loại án này, hoạt động khám nghiệm hiện trường có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát hiện tội phạm, nhiều dấu vết, vật chứng tập trung chủ yếu tại hiện trường, do đó phải đọc kỹ biên bản khám nghiệm. BLTTHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định việc khám nghiệm phải có người chứng kiến, phải chụp ảnh vẽ sơ đồ, thu thập các dấu vết, vật chứng…

Đối với khám nghiệm tử thi, các vụ chết do án mạng, kể cả chết chưa rõ nguyên nhân đều phải tiến hành khám nghiệm tử thi; VKSNDTC còn quy định các vụ án có hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, vụ án giết người không quả tang hoặc phức tạp thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng cấp tỉnh phải trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm. Do đó khi đọc các tài liệu này Luật sư cần kiểm tra thủ tục tố tụng đối với các loại biên bản xem có đúng quy định của pháp luật không, như có ghi người chứng kiến không, việc xem xét dấu vết trên thân thể có do người chứng kiến và người xem xét dấu vết cùng giới với người được xem xét dấu vết không.

Luật sư đọc và đối chiếu các dấu vết, công cụ, phương tiện thu giữ tại hiện trường xem có phù hợp với thương tích ghi trong biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể và các tài liệu liên quan về thu giữ dấu vết, vật chứng không. Từ đó Luật sư xác định nguồn gốc và mối liên quan giữa hiện trường với các dấu vết, vật chứng và thương tích trên cơ thể kể cả trường hợp không có người làm chứng trực tiếp.

Chẳng hạn đối với án xâm hại tình dục, xâm phạm tính mạng con người, thực tế cho thấy, các vụ án đã xảy ra ở nhiều nơi khác nhau như: Rừng núi, bãi bồi, bờ biển, đồng lúa, vườn sắn, đường mòn, bờ sông, trong nhà (tại nông thôn), quán trọ, nhà trọ công nhân – sinh viên, khách sạn, công viên, công trình xây dựng chưa nghiệm thu (tại thành phố).. . là những địa điểm và thời điểm vắng vẻ, hẻo lánh, xa các khu vực dân cư, khuất tầm nhìn, ít người qua lại. Tại những nơi này, thủ phạm dễ tấn công, khống chế, lại ít có khả năng bị phát hiện và hầu như không có người làm chứng. Tuy không có người làm chứng nhưng mọi dấu vết về hành vi phạm tội đều được để lại tại hiện trường, trên cơ thể nạn nhân nên nghiên cứu kỹ các tài liệu về hiện trường, tử thi, xem xét dấu vết cũng như biên bản thu giữ đồ vật thì Luật sư có thể phát hiện ra những điểm buộc tội có mâu thuẫn để bào chữa.

Ví dụ :

Vụ án hiếp dâm xảy ra vào khoảng 20h ngày 19/01/2018, Hậu, Thành Trung, Hùng và Lợi gặp nhau tại quán cà phê G thị trấn A, huyện B. Trong khi ngồi uống nước, Hùng nói có quen với mấy cô gái “mại dâm” ở khu vực xã T, huyện B đồng thời gợi ý đi rủ các cô gái này về chơi và cho cả bọn cùng giao cấu chung mà không mất tiền, nghe xong cả bọn đồng ý. Hùng đến bàn của Minh Trung và Khang đang ngồi ở quán nước bên cạnh để mượn thêm xe của Minh Trung nhưng Minh Trung không cho mượn. Hùng quay lại nói Lợi và Thành Trung ngồi tại quán nước đợi còn Hậu chở Hùng bằng xe gắn máy của Hậu về khu vực xã T nhưng không gặp được cô gái quen với Hùng, nên cả hai đến quán cà phê tại số 1A 60, ấp 1, xã P, huyện B rủ Mai là người phụ bán cà phê của quán đi chơi và ăn tối (Hùng và Hậu đã quen biết từ trước). Đến 23h cùng ngày, Mai rủ thêm Lanh đi cùng, Lanh đồng ý. Hậu chở Lanh, Mai, Hùng bằng xe của Hậu chạy về xã V. Trên đường đi Hậu chở Mai, Lanh, Hùng đến nhà Minh Trung rủ Minh Trung đi. Khi đến nhà Minh Trung thì gặp Minh Trung, Khang, Lợi đi ra. Do chờ lâu không thấy Hậu và Hùng quay lại nên Thành Trung về trước. Riêng Lợi và Khang đến nhà Minh Trung chơi, Hậu, Hùng và Mai (Mai cũng quen Minh Trung) rủ Minh Trung đi chơi và ăn tối nhưng Minh Trung từ chối không đi. Lúc này Thành Trung chạy đến thấy Hậu và Hùng đã rủ được Mai, Lanh nên Thành Trung nói Hậu, Hùng đợi. Thành Trung chạy đi rủ thêm Nhã, Đồng, Luật, Hiếu, Tú và Tâm cùng tham gia hiếp dâm Mai và Lanh thì cả bọn đồng ý. Cả bọn đi bằng xe gắn máy đến nhà Minh Trung giả vờ rủ Hậu, Hùng, Mai và Lanh về xã P chơi và ăn khuya. Lúc này Lợi cùng đi theo, còn Khang và Minh Trung quay vào nhà ngủ tiếp.

Thành Trung, Hậu, Lợi, Hùng, Nhã, Hiếu, Tú, Tâm, Luật và Đồng đi bằng 4 xe gắn máy chở Mai và Lanh đi lòng vòng, giả vờ nói là đi đường tắt. Sau đó cả bọn đưa Mai và Lanh đến đoạn đường vắng, không người qua lại và dừng xe trên cầu kênh 6 thuộc ấp 4, xã P, huyện B. Tại đây tên Hùng và Hậu giả vờ đi tiểu để tránh mặt cho Thành Trung, Nhã, Tú, Tâm, Hiếu, Lợi, Luật và Đồng ôm vật ngã Mai và Lanh xuống mặt cầu, đồng thời cởi hết quần áo của Mai và Lanh ra. Mai và Lanh có kêu cứu và chống cự thì bọn chúng nhét quần áo lót của Mai và Lanh vào mồm. Sau đó tất cả 10 tên thay nhau giữ chân của Mai và Lanh và thực hiện hàn9h vi hiếp Mai và Lanh, mỗi người thực hiện việc giao cấu hai lần.

Trong vụ án này dù thời điểm đêm khuya, địa điểm là nơi vắng vẻ, kẻ phạm tội có thể dùng nhiều thủ đoạn xóa dấu vết, làm giả hiện trường đánh lạc hướng điều tra nhưng tại hiện trường vụ án vẫn để lại các dấu vết vật chất đặc thù bao gồm như sau:

–  Dấu vết phản ánh sự vật lộn, chống trả như: Cỏ cây dập nát, quần áo bị rách, cúc quần áo bị rơi trên mặt đất, vết trượt của giày dép ở hiện trường…

– Dấu vết sinh vật như: Dấu vết máu, tinh dịch, mảnh da, lông, tóc, vết bầm tím, vết xước…

– Dấu vết khác như: Dấu vết chân, dấu vết giày dép, dấu lốp bánh xe…

– Các công cụ, phương tiện phạm tội…

Đọc biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án trên, Luật sư cần chú ý các dấu vết để xác định thực chất hành vi phạm tội của cả nhóm cũng như của từng người trong nhóm.

Với các biên bản thu giữ vật chứng, Luật sư cần đọc kỹ để xác định tính liên quan của vật chứng qua việc kết nối các thông tin về nơi và cách thức tìm được vật chứng, các đặc điểm riêng của vật chứng, kích thước của vật chứng, nắm vững quá trình thu thập vật chứng (qua khám xét, khám nghiệm hiện trường thu được hay do người nào mang đến nộp), làm rõ cơ chế sát thương hoặc gây ra thương tích, cách thức sử dụng và những vết thương để lại trên thân thể (thi thể) nạn nhân xem có phù hợp hay không? Cách thức sử dụng công cụ, phương tiện so với tính năng của công cụ, phương tiện so với hậu quả đã xảy ra, từ đó so sánh với lời khai về nguồn gốc, quá trình mua sắm, tàng trữ công cụ phạm tội, mức độ hiểu biết của bị can về công năng và cách sử dụng vật chứng, so sánh vật chứng với các chứng cứ khác xem phù hợp hay mâu thuẫn để xác định giá trị chứng minh của nguồn chứng cứ này, qua đó xác định được phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng như mức độ lỗi của bị can để bào chữa theo hướng giảm nhẹ cho bị can hay đề xuất tăng nặng TNHS khi bảo vệ cho bị hại.

Ví dụ :

Bị can khai dùng một dao nhọn dạng kiếm ống đâm hai nhát vào đùi bị hại, sau khi gây án đã ném con dao này xuống giếng nước gần nhà. Gia đình đã vớt lên và giao nộp cho CQĐT. Con dao được mô tả chi tiết trong biên bản giao nộp vật chứng. Luật sư cần đọc biên bản thu giữ đồ vật để có được các thông tin về kích cỡ, chất liệu (lưỡi dao dài bao nhiêu, bản rộng bao nhiêu, đầu dao nhọn hay tù…), so sánh với mô tả về thương tích trên cơ thể người bị hại theo ghi biên bản xem xét dấu vết trên thân thể, theo bản ảnh chụp thương tích, theo quyết định trưng cầu giám định (như vết thương rách da sâu… cm, bờ mép sắc nhọn có 3 cạnh, kích thước…cm x … cm) để có những suy luận ban đầu và sau này có những đánh giá về kết luận giám định pháp y (cơ chế hình thành thương tích, thương tích do vật gì gây ra, có phù hợp với vật chứng, với lời khai của các bên về vật chứng, nguồn gốc của vật chứng, cách thức sử dụng vật chứng… hay không)?

Luật sư cũng theo quy trình đọc đánh giá nêu trên khi tiếp cận các tài liệu của cơ quan y tế, xác định xem tài liệu đó có được hình thành một cách hợp pháp không? Có được thu thập theo đúng trình tự luật định không? Nội dung của những tài liệu này có phản ánh được sự thật khách quan của vụ án hay không để đánh giá một cách chính xác tài liệu của cơ quan y tế, cơ quan giám định. Tất nhiên muốn đánh giá tài liệu này trong hồ sơ có tin cậy hay không, Luật sư cần tự trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về pháp y học, tuy nhiên, do một người không thể biết hết được mọi kiến thức nên Luật sư có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các bác sĩ để có cơ sở tự xây dựng giả thiết hoặc phản biện lại CQĐT.

Ví dụ :

Về dấu vết để lại ở bộ phận sinh dục bị hại trong vụ án xâm hại tình dục, Luật sư cần lưu ý một số điểm sau: Đối với các trường hợp nạn nhân mới giao hợp lần đầu và được phát hiện kịp thời, sẽ có các dấu hiệu rách mới ở màng trinh. Trong 1 – 2 ngày đầu tiên, bờ mép sưng nề, màu đỏ tươi, rớm máu, sau 4 đến 5 ngày sẽ là tiến trình sẹo hóa và sau 1 tuần đến 10 ngày sẽ sẹo hóa hoàn toàn. Đối với trẻ em gái, hệ thống sinh dục ngoài chưa thật sự hoàn thiện, khi bị hiếp dâm, sẽ có những vết bầm tím, rách âm đạo, túi cùng sau và thậm chí rách tầng sinh môn. Đối với phụ nữ trưởng thành, đã qua nhiều lần quan hệ tình dục và sinh nở, khi bị hiếp dâm, rất khó phát hiện các thương tổn ở cơ quan sinh dục do màng trinh đã teo và chun lại, ngoài ra còn có nguyên nhân từ chủ quan của bị hại khi họ có xu hướng tắm rửa sạch sẽ sau khi bị hiếp dâm để thanh tẩy những gì mà tội phạm để lại cả trên cơ thể và trong ký ức của họ. Luật sư cần đọc kỹ tài liệu của cơ quan y tế đối với từng trường hợp cụ thể, kết hợp với các chứng cứ khác và lời khai xem có dấu vết của hiếp dâm hay không.

Thứ hai, tài liệu về giám định.

Tài liệu về giám định trong vụ án về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người thường bao gồm quyết định trưng cầu giám định, giấy chứng thương của cơ quan y tế, các dấu vết và công cụ thực hiện tội phạm thu được, các mẫu vật gửi đi giám định và kết luận giám định.

Giám định tư pháp hiện nay bao gồm giám định kỹ thuật hình sự, giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần, trong đó giám định kỹ thuật hình sự gồm:

–  Giám định dấu vết đường vân;

– Giám định dấu vết cơ học;

– Giám định súng, đạn;

– Giám định tài liệu;

– Giám định ảnh;

– Giám định cháy, nổ;

– Giám định kỹ thuật;

– Giám định âm thanh;

– Giám định sinh học;

– Giám định hóa học.

Giám định kỹ thuật hình sự với các lĩnh vực nêu trên đồng thời là biện pháp khoa học – kỹ thuật, nghiệp vụ của ngành Công an.

Đối với lĩnh vực giám định pháp y, hiện nay Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT- BLĐTBXH ngày 27/9/2013 quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích, bệnh, tật và bệnh nghề nghiệp (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thay thế Thông tư liên bộ số 12-TTLB ngày 26/7/1995 của Bộ Y tế – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành kèm theo bản quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh tật mới chủ yếu áp dụng trong giám định thương tật cho thương binh và người bị tai nạn lao động. Gần nhất là Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần. Do đó, Luật sư cũng phải có những kiến thức cơ bản về tiêu chuẩn xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể, các thuật ngữ của giám định pháp y như thương tật tạm thời, vĩnh viễn, phương pháp cộng lùi, cộng thẳng…, phải đọc kỹ các quy định của Luật Giám định tư pháp năm 2012 cũng như các Nghị định hướng dẫn thi hành.

Khi đọc các tài liệu giám định trong hồ sơ vụ án này, Luật sư chú ý:

–  Xem các mẫu vật gửi đi giám định có phù hợp không, đầy đủ hay thiếu, có bảo đảm trình tự, thủ tục thu thập không, thời hạn, thủ tục, thẩm quyền trưng cầu giám định;

–  Chú ý đọc các thông tin về chủ thể giám định với các thông tin về trình độ chuyên môn của họ kèm theo đã đủ để thuyết phục về tư cách chuyên gia pháp y, pháp y tâm thần hay chưa. Thực tế cho thấy, những vụ án phức tạp về pháp y học hoặc mang tính nhạy cảm cao (vụ giết người trên cầu Chương Dương, vụ Thẩm mỹ viện Cát Tường, vụ kỳ án vườn mít…) thì trình độ chuyên môn, thậm chí tính khách quan của người giám định là yếu tố rất quan trọng.

Đặc biệt cần chú ý tính khoa học của các phương pháp áp dụng để ra kết luận giám định có bảo đảm không. Trong các trường hợp với một thương tật của người bị hại nhưng có hai hoặc thậm chí nhiều hơn các kết luận giám định (đặc biệt là trường hợp chênh lệch về tỷ lệ thương tật dẫn tới sự thay đổi trong việc CTTP (khung cơ bản) hay không CTTP, chuyển sang khung hình phạt nặng hơn hay nhẹ hơn), việc sử dụng kết luận giám định nào là thuộc về trách nhiệm đánh giá chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận kết luận nào và không chấp nhận kết luận nào thì cần có sự đánh giá trên cơ sở những lập luận cụ thể. Luật sư có quyền đánh giá về kết luận giám định, đặc biệt là khi sử dụng một kết luận giám định gây bất lợi cho người được bào chữa hay người được bảo vệ.

Ví dụ :

Vụ án gây thương tích có nội dung: Khoảng 17h ngày 10/9/2018, tại gia đình anh Vũ Sỹ T trú tại khu đô thị PĐ – phường ĐN – thị xã TS, tỉnh BN xảy ra việc xô xát, cãi chửi nhau giữa Đào Xuân B và vợ chồng anh T – chị H. Vì vậy, B có điện thoại cho Đào Văn N (em ruột  B) đến nhà anh T. Sau đó đã xảy ra vụ đánh nhau: B dùng tuýp sắt một đầu vát nhọn đâm, còn N dùng dao tông chém anh Phạm Văn Th (là anh vợ anh T) làm anh Th bị thương ở cánh tay, cẳng tay và mu bàn tay trái. Qua giám định, anh Thìn bị tổn thương cơ thể là 11%. VKSND thị xã TS, tỉnh BN truy tố Đào Xuân B, Đào Xuân N về tội cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015.

Luật sư bào chữa cho Đào Xuân B đọc quyết định trưng cầu giám định của Công an thị xã TS thấy ghi rõ tài liệu gửi giám định kèm theo gồm giấy chứng nhận thương tích, giấy ra viện của anh Th.

Đọc giấy chứng thương của Bệnh viện đa khoa thị xã TS ngày 20/9/2018 Luật sư thấy bệnh viện xác nhận bệnh nhân vào viện trong tình trạng: Bệnh nhân tỉnh, da niêm mạc hỏng, 1/3 dưới mặt ngoài cẳng tay trái có vết rách dài 7 cm x 1 cm gọn sạch chảy máu, 1/3 dưới mắt trong cẳng tay trái có vết rách hình vòng cung dài 6 cm x 1cm lóc da gọn sạch chảy máu, gan bàn tay trái có vết rách dài 2 cm x 0,5 cm nham nhở, chảy máu nhiều. Theo giấy chứng thương thì anh Th lúc vào viện chỉ có 3 vết thương. Nhưng kết luận giám định của Tổ chức giám định pháp y tỉnh BN dựa trên giấy chứng thương lại kết luận: Sẹo vết thương mặt trước 1/3 dưới cánh tay trái kích thước 5,5 x 0,1 cm = 3% vĩnh viễn; Sẹo vết thương mu bàn tay trái đốt 1 ngón 2 0,1cm= 2% vĩnh viễn; Sẹo vết thương 1/3 dưới cẳng tay trái hình vòng cung kích thước 3x 0,1cm = 3% vĩnh viễn; Sẹo vết thương bàn tay trái kích thước 2 x 0,2 cm = 3% vĩnh viễn. Tổng hợp theo phương pháp cộng lùi = 11%. Xếp hạng thương tật: vĩnh viễn 11%. Theo kết luận giám định thì anh Th có 4 vết sẹo, tỷ lệ thương tật 11%. Luật sư so sánh các vết thương của anh Th được mô tả trong giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện đa khoa thị xã TS và Kết luận giám định của Tổ chức giám định pháp y tỉnh BN là khác nhau, trong khi lúc đầu vào viện anh Th được xác định có 3 vết thương nhưng kết luận giám định lại xác định 4 vết thương, trong đó có thêm vết thương ở mu bàn tay. Luật sư ghi lại để làm rõ từng vết thương được tổ chức giám định pháp y tỉnh BN giám định, nhất là vết thương mu bàn tay có đúng là vết thương do Đào Xuân B gây ra hay không.

Đối với nhóm tài liệu là lời khai của người tham gia tố tụng, khi đọc Luật sư phải đầu tư thời gian, công sức để xác định được lô gíc tâm lý và diễn biến hành vi của bị can. Bởi lẽ, trong loại án này thường có nhiều mâu thuẫn trong lời khai của bị can và bị hại. Luật sư phải đặt mình vào vị trí của bị can, bị hại để tìm ra mấu chốt của vấn đề, bản chất khách quan của sự việc, từ đó định hướng cho việc hình thành luận cứ bào chữa.

Tương tự như vậy đối với lời khai của người làm chứng, bị hại khi nghiên cứu nội dung mỗi lời khai, Luật sư cần xác định rõ quan hệ của họ với các bên, họ có lợi ích gì nếu thay đổi lời khai, tại sao họ biết được tình tiết đó. Đây cũng là loại án mà lời khai về việc chứng kiến trực tiếp hành vi đâm, chém, giết, hiếp… Có ý nghĩa quan trọng, do đó cần xác định trong hoàn cảnh trực tiếp hay gián tiếp họ có thể nhận biết được tình tiết của vụ án (Chính mắt nhìn thấy, nghe thấy hay qua lời kể của người khác? Hay đơn thuần là sản phẩm của một chút sự thật kết hợp suy luận, tưởng tượng).

Cũng chính vì tính chất mâu thuẫn của các lời khai trong vụ án nên CQĐT còn hay sử dụng biện pháp đối chất, nhận dạng và thực nghiệm điều tra để kiểm chứng. Do vậy, Luật sư cần đọc kỹ biên bản đối chất và biên bản nhận dạng, thực nghiệm điều tra trong hồ sơ vụ án. Trong biên bản thực nghiệm điều tra phải chú ý việc thực nghiệm có được thực hiện đúng như điều kiện xảy ra sự việc về thời gian, không gian, công cụ được sử dụng, người đóng thế…, chú ý mô tả động tác thực hiện tội phạm có đúng như thực tiễn xảy ra, có phù hợp với vết thương để lại trên cơ  thể bị hại không.

Trong nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm (hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô người dưới 18 tuổi) khi đọc hồ sơ, Luật sư còn phải chú ý các tài liệu xác định độ tuổi của bị hại là trẻ em, nếu có nghi ngờ về các tài liệu xác định tuổi phải ghi lại làm căn cứ đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung, thực tế đã có những trường hợp sau khi điều tra bổ sung xác định chính xác tuổi của người bị hại đã qua tuổi trẻ em nên vụ án được đình chỉ hoặc được chuyển sang tội danh khác.

Để được tư vấn chi tiết từ luật sư của Luật 3 Chung

Vui lòng liên hệ số hotline 085.200.8585

Hoặc liên hệ qua email: luatsu@luat3chung.vn

Bài viết liên quan